Ngô Nhân Dụng
Marx
và Engels đã lên án đồng tiền, coi đó chỉ là một khí cụ để giai cấp
thống trị tư bản bóc lột giai cấp vô sản bị trị. Cho đến thập niên
1970, nhiều người cộng sản ở Âu Châu vẫn còn nuôi giấc mộng loài người
sẽ tiến tới một xã hội không cần đến tiền tệ. Khi đó, mọi người đều làm
việc cho guồng máy sản xuất chung mà không cần lãnh lương. Mỗi khi ai
có nhu cầu nào thì cứ việc tới các cửa hàng chung, lấy về nhà sử dụng
(Un Monde sans Argent: Le Communisme; Paris, 1975).
Các
đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam hiện nay trên lý thuyết vẫn theo
chủ nghĩa Marx-Engels, nhưng họ học ngược lý thuyết của hai ông thầy.
Bài học mà hai nhà tiên tri này dạy cho họ là: Ðồng tiền là một khí cụ
để giai cấp thống trị bóc lột đám dân bị trị. Họ áp dụng ngay phương
pháp này, để củng cố quyền lực và quyền lợi của quý ngài lãnh tụ đảng
đang ngồi giữ các chức vụ trong guồng máy hành chánh và kinh tế.
Năm
ngoái khi kinh tế thế giới rơi vào cơn khủng hoảng, chính phủ Bắc Kinh
đã dùng 4,000 tỷ nhân dân tệ (khoảng 585 tỷ Mỹ kim, bằng 14% tổng sản
lượng nội địa năm đó) gọi là để kích thích nhu cầu trong nền kinh tế,
cũng giống như các kế hoạch kích thích ở các nước Âu Mỹ. Chương trình ở
Trung Quốc bắt đầu từ Tháng Mười Một, năm 2008, đến nay đã đưa tới một
hậu quả là nó làm trì hoãn việc cải tổ cơ cấu nền kinh tế, có khi còn
quay chiều đi ngược lại. Vì số tiền trên được dùng nuôi nấng các doanh
nghiệp nhà nuớc, tiêu tiền vào những việc phí phạm trong khi chèn ép
các xí nghiệp tư nhân cho họ bị khó khăn hơn. Ở Trung Quốc thế nào thì
Việt Nam chắc cũng không khác, vì ít khi thấy Hà Nội có sáng kiến nào
khác với đường lối của Bắc Kinh. Chính các chuyên gia kinh tế ở Trung
Quốc đã nêu lên nhưng hậu quả trên, chứ không phải do “các thế lực thù
nghịch” nào cả.
Giáo Sư Vương Nhất Giang (Wang Yijiang) thuộc
Viện Ðại Học Thương Mại Trường Giang (Cheung Kong), Bắc Kinh, nói rằng
“Chương trình kích thích kinh tế đã khiến cho cơ cấu kinh tế ở Trung
Quốc càng mất cân bằng hơn.” Cảnh mất cân bằng trầm trọng hơn là số
tiền kích thích được dồn cho các doanh nghiệp nhà nước, còn lãnh vực tư
nhân bị bỏ rơi. Sau 30 năm cải cách kinh tế, đây là lần đầu tiên tỷ lệ
hoạt động trong lãnh vực tư doanh giảm xuống thay vì tăng lên. Mà chính
các xí nghiệp tư nhân cung cấp ba phần tư số công việc làm cho giới lao
động Trung Quốc.
Ở các nước theo kinh tế thị trường, các ngân
hàng chỉ cho vay khi thấy xí nghiệp xin vay có lời và dự án sử dụng
tiền vay có triển vọng sinh lợi. Ở Trung Quốc thì ngược lại. Trong sáu
tháng đầu năm 2009, các ngân hàng Trung Quốc đã đem một số tiền khổng
lồ cho các xí nghiệp vay qua các món nợ mới: 7370 tỷ nhân dân tệ, gấp
ba lần số nợ mới trong nửa đầu năm 2008, vượt cao hơn mục tiêu của cả
năm. Ngân hàng NBP Paribas tính số nợ mới này lớn bằng 45% tổng sản
lượng nội địa và nhận xét chưa có một hệ thống ngân hàng nước nào đã
bơm nhiều tiền vào nền kinh tế như vậy.
Theo Royal Bank of
Scotland thì các xí nghiệp vay được tiền rồi không dùng hết, đã đem 20%
mua cổ phiếu và 30% dùng vào việc mua hoặc xây dựng nhà cửa mới, và các
vụ đầu tư không sản xuất. Hai thị trường cổ phần và thị trường địa ốc
lên cơn sốt báo động chính quyền Bắc Kinh, họ phải ra lệnh các ngân
hàng “tốp” lại. Nhưng các quan chức lãnh đạo từ xí nghiệp đến ngân hàng
đều đã có dịp bỏ túi rồi. Từ Tháng Mười Một năm ngoái đến đầu Tháng
Bảy, giá chứng khoán đã tăng 64% trước khi tụt xuống 14% trong ba tuần
lễ đầu Tháng Tám sau khi nghe tin lệnh ngưng cho vay.
Khi ngân
hàng của đảng đem tiền cho các doanh nghiệp nhà nước do đảng kiểm soát,
không những khiến cho các xí nghiệp tư nhân không thể cạnh tranh với xí
nghiệp nhà nước; mà còn giúp các cán bộ có dịp tấn công bỏ tiền ra mua
các xí nghiệp tư bị yếu để đưa chúng vào trong vòng kiềm tỏa của họ.
Một vụ “tấn công” đang được cả nước Trung Hoa và giới kinh doanh nước
ngoài chú ý là công ty Sắt Thép của tỉnh Sơn Ðông đang hiến giá mua
công ty sắt thép tư Rizhao (Nhật Chiếu), đẩy người làm chủ nhiều cổ
phần nhất của công ty tư này xuống hàng cổ đông thứ yếu.
Năm
ngoái công ty Rizhao được ước tính trị giá 30 tỷ nguyên. Trong 6 tháng
đầu năm nay Rizhao khai có lời 1.8 tỷ nguyên trong khi Sơn Ðông khai lỗ
1.3 tỷ. Nhưng nay Sơn Ðông đang đề nghị trả 16 tỷ nguyên để làm chủ 2
phần ba cổ phần trong Rizhao, phần còn lại để cho ông Ðỗ Song Hoa là
chủ nhân đa số cũ, là người đã từng được xếp hạng giầu thứ nhì ở Trung
Quốc. Ông Hoa đã tính kế “thoát xác” bằng cách chia một nửa quyền sở
hữu cho một công ty ở Hồng Kông, do một thân nhân của ông Hồ Cẩm Ðào
làm chủ; nhưng việc không xong.
Nếu cuộc tấn công này thành
công, nội trong tuần tới sẽ biết, thì ông Ðỗ Song Hoa (Du ShuangHua)
vẫn có thể coi là may mắn. Vì năm ngoái, người được mô tả là giầu nhất
Trung Quốc đã biến mất một cách bí mật khiến các cổ phiếu của công ty
Gome trên thị trường Hồng Kông phải ngưng mua bán, trước khi có tin của
cảnh sát nói ông ta bị bắt về tội gian lận chứng khoán. Chủ nhân công
ty Gome về điện khí và khí cụ điện tử là Hoàng Quang Dục (Huang
GuangYu) có tội lớn nhất là đã làm ăn khá giả ngoài vòng kiểm soát của
đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Hiện tượng các doanh nghiệp nhà nước
lấn bước và mua chiếm các xí nghiệp tư nhân được báo chí Trung Quốc gọi
là “quốc tiến dân thoái,” (guo jin min tui). Chính phủ Bắc Kinh vẫn nói
họ không hề có một chính sách bành trướng lãnh việc quốc doanh để lấn
áp lãnh vực tư doanh. Nhưng nhân cơ hội kinh tế thế giới khủng hoảng và
dùng các món tiền “kích thích” của nhà nước cộng sản, các xí nghiệp
quốc doanh đang lấn chiếm quay ngược kim đồng hồ của chương trình tư
nhân hóa đã thi hành từ thời Ðặng Tiểu Bình. Với số tiền khổng lồ mà
các ngân hàng của đảng có thể đưa cho các xí nghiệp của đảng vay, các
cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nuớc được cơ hội “vùng lên.” Những nhà
tư doanh, là “lực lượng sản xuất tiên tiến” theo lối nói của đảng Cộng
Sản, đã được mời gia nhập hàng ngũ đảng viên sau khi họ sửa cương lĩnh;
nhưng vẫn chưa làm hài lòng giai cấp thống trị. Vì đại đa số các cán bộ
quản lý các doanh nghiệp nhà nuớc nằm trong nhưng “đại gia đình” của
các lãnh tụ, họ chia nhau địa vị trong các xí nghiệp công lớn. Và họ
biết chắc là họ không thể cạnh tranh với các xí nghiệp tư trên một sân
banh bằng phẳng, dù các chủ nhân xí nghiệp tư đó có gia nhập đảng cộng
sản cũng chẳng có lợi gì cho họ. Cho nên, nếu có dịp là họ dùng tiền
của nhà nước, dùng quyền hành nhà nước trao cho, để làm nghiêng sân
chơi về phía có lợi cho họ! Chương trình kích thích kinh tế là một cơ
hội bằng vàng để “quốc tiến dân thoái.”
Nếu đảng Cộng Sản Trung
Quốc tiếp tục con đường này, nền kinh tế cả nước sẽ bị níu kéo trở lại
tình trạng kém hiệu năng; vì trong 30 năm qua các xí nghiệp tư là khu
vực hoạt động mạnh nhất, tạo nên nhiều công việc làm cho dân nhất.
Một
chuyên gia kinh tế cao cấp trong chính quyền Bắc Kinh cũng lên tiếng
cảnh cáo việc sử dụng tiền kích thích kinh tế không đúng. Ông Dư Vĩnh
Ðịnh (Yu YongDing), từng làm trong Ủy Ban Tiền Tệ của Ngân Hàng Nhân
Dân (tức ngân hàng trung ương Trung Quốc) viết trên nhật báo Financial
Times trong tuần này, báo động rằng chương trình kích thích kinh tế
đang kéo dài tình trạng thiếu cân bằng trong cơ cấu kinh tế quốc gia.
Sự phát triển trong các năm qua dựa quá nhiều trên số gia tăng đầu tư
vào cơ sở sản xuất tạo nên cảnh dư thừa không dùng tới, nay chuyển sang
hạ tầng cơ sở mà vẫn không được đưa vào lãnh vực tiêu thụ. Có 89% số
tiền kích thích đem dùng trong các dự án hạ tầng cơ sở (xa lộ, thiết
lộ, phi trường) mà chỉ có 8% được dùng kích thích tiêu thụ. Trong khi
đó, số tiêu thụ ở Trung Quốc đã quá thấp so với các hoạt động kinh tế
khác. Người dân tiêu thụ bị hy sinh cho các doanh nghiệp nhà nước dùng
tiền đi vay vào các dự án không chắc có lời, mà không biết trong tương
lai có thể trả nợ được hay không.
Ông Dư Vĩnh Ðịnh viết, “Tiền
kích thích đã làm cho tình trạng dư thừa khả năng sản xuất đã nghiêm
trọng càng trầm trọng hơn, trong khi tiền đem cho lại được dùng để thổi
cho quả bong bóng chứng khoán phồng lên nguy hiểm.” Ông cho biết số
tiền đầu tư vào cơ sở và thiết bị đã tăng 36% so với năm ngoái, và đưa
tỷ lệ của hoạt động đầu tư lên 50% tổng số GDP. Trong khi đó, người dân
Trung Hoa tạo ra được 100 đồng của cải thì chỉ được tiêu thụ 35 đồng,
tỷ lệ thấp nhất trong số các nền kinh tế lớn, so với ở Mỹ là 70 đồng
hay ở Ðức là 60 đồng.
Ở nước Mỹ, khi chính quyền Obama đưa ra
chương trình kích thích kinh tế gần 800 tỷ Mỹ kim, nhiều đại biểu Quốc
Hội đối lập đã chỉ trích rằng nhiều món tiền trong số đó được đem vào
những hoạt động kích thích dân tiêu thụ mà chỉ nhắm thực hiện nhưng
chính sách của đảng Dân Chủ, thí dụ như nghiên cứu nguồn năng lượng mới
và bảo vệ môi trường. Nhưng có một chính phủ Mỹ nào dám dùng tiền của
dân đóng thuế để kích thích riêng cho các cán bộ kinh tế của mình có
thể làm giầu thêm. Vì một nước có báo chí tự do và Quốc Hội độc lập
không cho phép chính quyền làm như vậy.
Ở Trung Quốc thì rõ ràng
nhưng số tiền do chính phủ đem kích thích kinh tế chỉ nhắm làm giầu cho
các cán bộ quốc doanh. Ở Trung Quốc không ai đặt câu hỏi tại sao lại
dùng tiền đóng thuế của dân như vậy. Vì không ai dám nói đó là tiền của
dân. Nhiều người nghĩ đó là tiền của đảng Cộng Sản, họ muốn làm gì thì
làm! Phải có các nhà kinh tế phân tích cho người dân thấy tiền đóng
thuế của họ được đem dùng cho ai hưởng!
Ðảng Cộng Sản Trung Quốc
đã làm đúng việc mà Marx và Engels kết tội giai cấp tư bản khi xưa. Là
dùng tiền bóc lột của dân lao động để củng cố địa vị và quyền lợi giai
cấp thống trị! Cộng Sản Việt Nam cũng đang theo từng bước chính sách
của đảng đàn anh, nhưng chưa thấy trong nước có tờ báo nào dám nói lên
nhưng lời cảnh cáo như các ông Dư Vĩnh Ðịnh và Vương Nhất Giang đã làm!
Nếu Marx và Engels sống trong thời này chắc hẳn họ phải viết một bộ
sách “Tư Bản Nhà Nước Ðộc Quyền” để hô hào người dân lao động đứng lên
làm cách mạng!
|