Chuyện trước mắt phải giải quyết là chủ quyền của Việt Nam ở
Hòang Sa và 8 mỏm đá ngầm đã rơi vào tay quân Tầu ở Trường Sa. Chừng nào
hai vấn đề này chưa được giải quyết thì chuyện Tầu chiếm thêm biển và
đất của Việt Nam chỉ còn là thời gian.
Ngày
Thứ Tư, 14 Tháng 09 Năm 2011, đánh dấu 53 năm ngày Phạm Văn Đồng, Thủ
tướng Cộng sản Việt Nam gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận Chủ quyền của nước này trên hai
Quần đảo Hòang Sa và Trường Sa mà sử sách Việt Nam từ bao đời đã chứng
minh đó là giang sơn của Tổ tiên người Việt.
Lỗi
lầm lịch sử này giờ đây đã biến thành mối họa cho dân tộc nhưng đảng
Cộng sản Việt Nam, người đoạt quyền của cả nước Việt Nam, lại không đủ
can đảm giải thích tại sao Phạm Văn Đồng đã sai lầm như thế?
Trước khi bàn thêm, chúng ta cần đọc lại nguyên văn Công hàm tai hại này của Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai :
"Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và
sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
(Ký tên-Đóng dấu
Phạm Văn Đồng
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt-Nam Dân chủ Cộng Hòa)
Cũng
nên biết Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Hoa có đính kèm Bản
đồ hai Quần đảo Hòang Sa và Trường Sa, mà khi ấy thuộc quyền cai qủan
của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở miền Nam vỹ tuyến 17, ranh
giới phân chia hai miền Nam-Bắc Việt Nam quy định bởi Hiệp định Geneve
năm 1954.
Trong
suốt thời gian từ 1954 cho đến khi Quân đội Cộng sản miền Bắc chiếm Sài
Gòn ngày 30 tháng 04 năm 1975, chấm dứt sự có mặt của Chính quyền
VNCH, chưa hề thấy những người cầm quyền ở miền Bắc, kể cả Hồ Chí Minh
còn sống khi Phạm Văn Đồng gửi Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958, lên
tiềng giải thích lý do tại sao Đồng đã hành động dại dột như thế để di
hệ lụy cho dân tộc về sau ?
Sự
im lặng của Chính quyền miền Bắc, khi ấy là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
khi Bắc Kinh lợi dụng sự yếu thế của Quân đội VNCH trong nhửng ngày cuối
cùng của cuộc chiến giữa hai miến Nam-Bắc, xua quân đánh chiếm Quần đào
Hòang Sa ngày 19/01/1974, đã mở đường cho Bắc Kinh bất ngờ đem quân
đánh chiếm 8 mỏm đá ngầm ở Quần đào Trường Sa vào tháng 3 năm 1988, khi
ấy đã do lính Cộng sàn Việt Nam kiểm soát.
Cho
đến bây giờ, chính phủ của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
vẫn chưa có bất cứ hành động nào, ngòai những lời nói xác nhận chủ
quyền bằng nước bọt nghe mãi nhàm tai trên hai Quần đào Hòang Sa và
Trướng Sa.
Việt
Nam đã không dám đưa Trung Hoa ra trước Liên Hiệp Quốc và Tòa án Quốc
tế để đòi lại tòan Hòang Sa và 8 mỏm đá ngầm ở Trường Sa, trong khi
Trung Hoa tiếp tục tuyên bố và khoanh hình Lưỡi bò dành chủ quyền từ
80 đến 85% diện tích Biển Đông.
Đảng
CSVN còn ngăn cản không để cho Quốc hội thảo luận và ra Nghị quyết xác
nhận chủ quyền lãnh thổ trên hai Quần đảo Hòang Sa và Trường Sa trong Kỳ
họp thứ Nhất của Quốc hội đương nhiệm XIII, chấm dứt ngày 06-08-2011.
Hành
động khuất tất này của Nhà nước Việt Nam đã bị nhiều thành phần trong
xã hội Việt Nam và người Việt ở nước ngòai lên án là nhu nhược về bản
lãnh và hèn yếu trong chính trị trước những đe dọa công khai và trắng
trợn của lực lượng Hải quân Trung Quốc ngay trong lãnh hải của Việt
Nam.
Thậm
chí, nhà nước Việt Nam còn chỉ thị cho công an, cảnh sát đàn áp người
dân tham gia các cuộc biều tình chống âm mưu bành trước, bá quyền của
Trung Quốc kể từ đầu tháng 6 cho đến ngày 21 tháng 8 (2011).
Sự
sợ hãi Bắc Kinh của đảng CSVN còn được chứng minh bằng lời cam kết "gia
nô” của Nguyễn Chí Vịnh, Trung tường, Thứ trưởng Quốc phòng nói với
Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc, trong Cuộc họp ở Bắc Kinh ngày 28 tháng 08 (2011).
Theo tường thuật của Thông tín viên Báo Quân đội Nhân dân thì Vịnh đã hành động như sau:
"Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng thông báo chủ trương kiên quyết xử
lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc
tái diễn ."Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống
phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là
Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các
luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc.
Chúng
ta cần làm cho nhân dân hai nước hiểu rõ, giữa Việt Nam và Trung Quốc
còn tồn tại vấn đề nhưng hai Đảng, hai Nhà nước đã cam kết xử lý bằng
biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, với giải pháp hai bên cùng
có thể chấp nhận được”. (Theo Bảo Trung của Báo Quân đội Nhân dân, 30-8-2011)
Tiếp theo chuyến đi Bắc Kinh của Vịnh thì Trung Quốc đã phái ngay Ðới
Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ, dẫn đầu một phái đòan cao cấp sang thăm Việt
Nam và tham dự Phiên họp lần thứ năm của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam – Trung Quốc.
Tuy
đây là cuộc họp thường niên giữa hai bên, nhưng bối cảnh xung đột ở
Biển Đông giữa Trung Hoa và Việt Nam đã làm cho tình hình không còn hòa
bình nữa.
Ngòai
cuộc họp với Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ tướng, họ Đới còn gặp và thảo
luận tình hình chung, kể cả những tranh chấp giữa hai nước ở Biển Đông,
với Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng và Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng.
Tại cuộc họp với Trọng, Thông tấn xả Việt Nam (TTXVN) viết : " Ðồng
chí Ðới Bỉnh Quốc đã báo cáo với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về những
kết quả tích cực của Phiên họp lần thứ năm Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam – Trung Quốc. Ðồng chí nhấn mạnh, Ðảng, Chính phủ Trung
Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện
với Việt Nam. Mặc dù hiện nay hai bên còn có những vấn đề tồn tại, nhưng
hai bên có chung lý tưởng, có lợi ích chung, vận mệnh gắn liền với
nhau, không có lý do gì không cố gắng thúc đẩy quan hệ hai nước phát
triển tốt đẹp. Ðồng chí bày tỏ các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc mong
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sớm sang thăm Trung Quốc.
Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Ðới Bỉnh Quốc
và Ðoàn sang thăm Việt Nam; đánh giá cao kết quả cuộc họp Ủy ban Chỉ đạo
hợp tác song phương; khẳng định đây là cơ chế hợp tác quan trọng, hết
sức hiệu quả, cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới. Tổng Bí thư đề
nghị hai đồng chí Chủ tịch và các thành viên Ủy ban hai bên phát huy
tinh thần trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với nhau thúc đẩy giao lưu, hợp
tác trên mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ, kịp thời giải quyết những vướng
mắc trong quan hệ, nâng hiệu quả hợp tác lên một tầm cao mới….
Về
tình hình Biển Ðông, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ mong muốn hai
bên thông qua đàm phán hòa bình, hiệp thương hữu nghị, nỗ lực tìm ra
giải pháp thỏa đáng, tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ láng giềng
hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát
triển.”
Việc
Trọng "được mời” hay "bị gọi” sớm qua thăm Trung Quốc đã được bàn đến
trong chuyến đi của Nguyễn Chí Vịnh, có chăng là Đới Bỉnh Quốc chỉ nhắc
lại yêu cầu của Bắc Kinh muốn Trọng mau thực hiện chuyến đi mà thôi.
Tại cuộc gặp Nguyễn Tấn Dũng, TTXVN ghi lại lời Dũng nói rằng : " Nhân
dân Việt Nam luôn ghi nhớ với lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ và giúp đỡ
to lớn của Ðảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc dành cho nhân dân
Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và sự nghiệp
xây dựng đất nước hiện nay.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Ðảng, Nhà nước, nhân dân Việt
Nam hết sức coi trọng và mong muốn cùng với Ðảng, Nhà nước và nhân dân
Trung Quốc tiếp tục đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện
giữa hai nước, ngày càng đi vào chiều sâu, theo đúng phương châm 16 chữ
và tinh thần bốn tốt ( láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai . Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt
). Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, điều này phù hợp lợi ích thiết
thực của nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở khu vực.
Về
vấn đề biên giới lãnh thổ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao kết
quả hai bên đạt được trong việc thực hiện ba văn kiện liên quan biên
giới trên đất liền, góp phần xây dựng đường biên giới hai nước thành
đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Về vấn đề Biển Ðông, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, qua trao đổi hai bên đã hiểu rõ lập
trường của nhau, việc hai bên còn khác biệt là thực tế khách quan. Hai
bên cần thông qua đối thoại chân thành, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau,
trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của LHQ về Luật Biển
1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Ðông (DOC) để tìm
kiếm giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được. Thủ
tướng cho rằng, hai bên cần đẩy nhanh đàm phán để sớm ký Thỏa thuận các
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, tạo cơ sở để hai
bên giải quyết các vấn đề cụ thể trên biển….
Đồng
chí Ðới Bỉnh Quốc đề nghị, trên tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh
em, hai bên khẩn trương cùng nhau đàm phán, thảo luận những vấn đề mà
hai bên còn khác biệt trong vấn đề Biển Ðông để tìm ra những giải pháp
mang tính cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.”
Tất
cả những lời tuyên bố của đôi bên không mảy may đem lại điều gì mới lạ
hơn những gì mà lãnh đạo hai nước đã từng nói cho tất cả mọi người cùng
nghe từ vài năm qua.
Tuy nhiên khi Dũng bảo " Nhân
dân Việt Nam luôn ghi nhớ với lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ và giúp đỡ
to lớn của Ðảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc dành cho nhân dân
Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và sự nghiệp
xây dựng đất nước hiện nay” thì không hiểu Dũng có nhớ Chính phủ
do Dũng cầm đầu đã dành đến 90% dự án kinh tế, xây dựng cho Trung Quốc
để rút ruột tiền mồ hôi nước mắt của người dân Việt Nam ?
Hơn
nữa khi Đới Bỉnh Quốc tuyên bố những lời đường mật với lãnh đạo Việt
Nam thì Bắc Kinh đã và đang hành động bắt nạt Việt Nam tr6en nhiềju lĩnh
vực.
Những
việc làm của Bắc Kinh ở Biển Đông trong thời gian qua đã chứng minh
chính sách "vừa tát vừa xoa” của Trung Quốc đối với Việt Nam như họ vẫn
tiếp tục đem tầu Hải giám tuần tra các vùng biền của Việt Nam, vẫn chận
bắt và tích thu tài sản của các ngư dân Việt Nam đánh cá quanh Hòang Sa
và Trường Sa cũng như họ chuẩn bị di chuyển dàn khoan dầu khổng lồ đến
thăm dò dầu khí ở Trường Sa, bất chấp phản đối của các bên tranh chấp
chủ quyền ở đây gồm có Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương, Đài Loan và
Việt Nam.
Ngòai
ra Trung Quốc cũng đã cho Việt Nam biết họ không bao giờ muốn thảo luận
chủ quyền với Việt Nam ở Hòang Sa vì Hòang Sa bây giờ đã năm trong tay
Bắc Kinh và Công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng đã thừa nhận chủ quyền
của Trung Quốc ở đó.
CÔNG HÀM CÓ Ý GÌ ?
Trước
thái độ chai lỳ bất di dịch của Bắc Kinh, ngày 27-07-2011, một Bài viết
trên báo Đại Đòan Kết của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đã khơi lại Công
hàm Phạm Văn Đồng với lập luận như sau :
"Gần
đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh
cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn
giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là
một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và
xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền
tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế
khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên
tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm
tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam….
Công
hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc
thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng
hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là
một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH
trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn
biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn
trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào
eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội
dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất
thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết,
chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia
thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và
việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu
đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời
của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng:
Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng
lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan
nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề
cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo
nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản
có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng
Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã
thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên
tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.”
Đấy chỉ là cách "cãi lý” của Báo Đại Đòan Kết” chứ chưa phải là Bản Tranh luận chính
thức của Bộ Ngọai giao hay của Nhà nước Việt Nam cho nên Trung Quốc vẫn
tiếp tục bác bỏ mọi yêu cầu nói chuyện Hòang Sa với Việt Nam.
Vậy
tại sao cho đến giờ này Nhà nước vẫn chưa dám "truy tố” Trung Quốc
cướp đất, cướp biển của Việt Nam ra trước công luận Thế giới và Tòa án
Quốc tế mới là điều khó hiểu.
Thái
độ "ngậm mồm chịu trận” này của đảng CSVN còn nhục nhã hơn khi nhà nước
cho Công an đi lùng bắt, đàn áp, đấm đá dã man, thô bỉ giữa ban ngày
chống người dân biểu tình lên án Trung Quốc xâm lược, chiếm đất, chiếm
biển của Tổ tiên để lại thì có phải là những người cầm quyền đã "đứng”
về phiá kẻ xâm lăng rồi không ?
Vậy
mà, phía Việt Nam vẫn còn như ngủ mê khi đồng ý với Lời Thông báo chung
sau cuộc họp giữa Trưởng đòan Việt Nam, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
và Đới Bỉnh Quốc ngày 6-9 tại Hà Nội.
Bản Tuyên bố chung có đọan viết : " Hai
bên cho rằng, giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển hết sức quan trọng
trong việc duy trì đại cục quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc,
khẳng định sẽ căn cứ theo những nhận thức chung của lãnh đạo hai nước,
luật pháp quốc tế và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại
Biển Đông (DOC, Declaration of Conduct), kiên trì thông qua đàm phán và
hiệp thương hữu nghị, giải quyết hòa bình tranh chấp trên biển, áp dụng
những biện pháp hữu hiệu nhằm duy trì và bảo vệ hòa bình và ổn định tại
Biển Đông.
Cũng
trong các cuộc tiếp xúc, hai bên nhất trí sẽ đẩy nhanh tiến độ đàm
phán, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận
được. Hai bên nhất trí tăng cường việc đàm phán vấn đề trên biển, sớm ký
kết "Thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên
biển giữa Việt Nam-Trung Quốc.”
Những cam kết này chỉ kéo dài thời gian chịu thiệt thòi cho phía Việt
Nam, bởi vì Trung Quốc vẫn không thay đổi lập trường vừa "đánh vừa đàm”
cố hữu của họ.
Chuyện
trước mắt phải giải quyết là chủ quyền của Việt Nam ở Hòang Sa và 8 mỏm
đá ngầm đã rơi vào tay quân Tầu ở Trường Sa. Chừng nào hai vấn đề này
chưa được giải quyết thì chuyện Tầu chiếm thêm biển và đất của Việt Nam
chỉ còn là thời gian.
Chẳng
nhẽ những người cầm đầu Đảng không đủ trí khôn để nhận ra rằng cả
trăm bài báo như kiểu Đại Đòan Kết viết về Công hàm Phạm Văn Đồng cũng
không tạo được sức mạnh chính trị và gây xúc động cho hàng triệu con
tim bằng tấm hình một em bé lên 5 cầm tấm bích chương trước ngực xác
nhận " HS-TS là của Việt Nam” đi biểu tình rất ngây thơ giữa đường phố Sài Gòn?
Chừng
nào lãnh đạo mà chưa có cam đảm hành động như em bé lên năm thì dù có
nói đến 1 triệu "chữ vàng” hay ngàn vạn "chữ tốt” cũng chẳng ai tin,
huống chi đối với kẻ thù? -/-
Phạm Trần
(09/011)
|