Phạm Trần
Đảng Cộng sản đang tìm cách ném một hòn đá chết 2 con chim, nhưng chưa
con chim nào trúng đá thì đảng đã phải đương đầu với hai mũi tên dân
chủ trá hình và nhân quyền giả tạo.
Về chuyện dân chủ thì Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện lịch
sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã làm rùm beng lên
điều được gọi là "65 năm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” để
tuyên truyền cho kỷ niệm Cuộc Cách mạng 19 tháng 8 năm 1945.
|
Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng |
Phúc khoe trên Tạp chí Tuyên Giáo ngày 17-8 (2010) rằng:
"Những thành quả về dân chủ của nước Việt Nam độc lập và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong 65 năm qua là rất to lớn, thể hiện sự biến đổi về
chất của xã hội, của thiết chế chính trị của Nhà nước cách mạng do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ở Việt Nam, không tồn tại chủ nghĩa đa
nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập, song nền dân chủ vẫn không
ngừng phát triển hoàn thiện và thực chất, hướng tới vì nhân dân, vì con
người.”
Viết như thế nhưng Phúc không dám nói dân chủ không do dân làm chủ mà
do đảng độc quyền nắm giữ. Từ vài năm nay, đảng chỉ cho phát triển dân
chủ trong nội bộ đảng mà chưa dám thực hiện với dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam quan niệm lạc hậu rằng nếu chưa có dân chủ trong đảng thì chưa
thể thực hành dân chủ ngòai xã hội nên họ đã cho thử nghiệm bầu trực
tiếp một số chức vụ đảng cấp địa phương.
Nhưng tại sao đảng lại sợ dân có dân chủ đến thế? Lý do dễ hiểu vì nếu
dân có dân chủ thì đảng mất độc tài đảng trị như ghi trong Điều 4 Hiến
pháp năm 1992.
Đảng từng tuyên bố được Quốc hội thay mặt nhân dân ủy quyền lãnh đạo,
nhưng Quốc hội lại do đảng lập ra và có tới 90 phần trăm Đại biểu Quốc
hội là đảng viên do đảng chọn để cho dân bầu vào Quốc hội thì việc cơ
chế này bỏ phiếu chấp thuận Điều 4 Hiến pháp cho đảng cầm quyền là
chuyện đương nhiên phải xẩy ra.
Do đó khi Nguyễn Trọng Phúc bảo rằng "nền dân chủ vẫn không ngừng phát
triển hoàn thiện và thực chất, hướng tới vì nhân dân, vì con người” là
nói dối, bởi vì vai trò của dân trong trường hợp này chỉ còn là "bù
nhìn”, là những "con thoi” hay "quân cờ” để cho nhà nước sử dụng, bởi
vì tất cả các ứng cử viên Quốc hội đều phải được Mặt trận Tổ Quốc của
đảng chọn cho dân bỏ phiếu chứ người dân không được quyền tự chọn người
mình muốn. Ngay cả quyền ứng cử người dân cũng không có nói chi đến
quyền bầu cử?
Vậy mà Phúc còn ba hoa rêu rao rằng trong giai đọan từ 1954 đến 1975 ở
miền Bắc "Quyền làm chủ của nhân dân bước đầu được phát huy, nhân dân
hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện cách mạng miền Nam. Chú
trọng xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trình độ học vấn, sống có
lý tưởng, nhân nghĩa "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người".
Nhưng có ai biết những con người thật của xã hội miền Bắc sau 20 năm
cai trị của đảng CSVN từ 1954 đến 1975 như thế nào không ? Đó là một
nhà nước nghèo nàn, con người chậm tiến, kinh tế lạc hậu, kỹ nghệ thô
sơ và là một xã hội đổ nát tòan diện từ vật chất đến tinh thần nếu so
với nhân dân miền Nam.
Vậy mà Nguyễn Trọng Phúc vẫn có thể nói như kẻ có mắt cũng như không
khi viết về giai đọan sau ngày Quân đội Cộng sản vào Sài Gòn tháng
4-1975 : "Sau
ngày miền Nam được giải phóng (30-4-1975), đất nước thống nhất và cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, càng có điều kiện để thực hiện và hoàn
thiện nền dân chủ, chế độ làm chủ của nhân dân trên phạm vi cả nước.”
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"!
Nói như thế là nói dối, nếu không muốn lên án là "nói láo” vì trong
giai đọan 10 năm từ 1975 đến 1985, cả nước Việt Nam đã bị đảng CSVN phá
hoại đến cạn kiệt không còn sức gượng dậy chỉ vì nhóm cấm quyền cực
đoan, bảo thủ và giáo điều miền Bắc đã tìm mọi cách áp dụng chế độ lao
động bóc lột chỉ huy trên phạm vi cả nước.
Hậu qủa nhãn tiền là nạn đói hòanh hành, kinh tế sụp đổ vì kế họach tập
trung, bao cấp và mất viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
cầm đầu. Nhiều chục ngàn dân cả hai miền Nam-Bắc đã tìm đường bỏ nước
ra đi, mặc cho phải hy sinh để tìm tự do cứu mạng.
Do đó Phúc đã gượng gạo che tội cho đảng khi viết về quyết định
chuyển hướng "đổi mới hay là chết” của Đảng năm 1986. Phúc nói rằng : "Nhà
nước đã lắng nghe ý kiến, sáng kiến của nhân dân, của các địa phương và
cơ sở để từng bước khắc phục mặt hạn chế của cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, hành chính, bao cấp - một cơ chế đã phát huy vai trò nhất
định trong thời chiến và đã trở thành sự cản trở cho sự phát triển.
Đảng, Nhà nước cùng với nhân dân đã từng bước khảo nghiệm để tìm con
đường đổi mới.”
Phát biểu như thế là Phúc đã ma mãnh phủ nhận theo kiểu vô ơn bạc
nghĩa, ăn ốc đổ vỏ với một số chuyên gia kinh tế và thị trường và cả
nông dân người miền Nam lúc bấy giờ.
Trong số những người có công đầu của kế họach "Đổi Mới” có cả hai
Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo (cựu Phó Thủ tướng VNCH), Nguyễn Xuân Oánh (cựu
Phó Thủ tướng VNCH), Nguyễn Văn Diệp (Cựu Bộ trưởng VNCH), Phan Chánh
Dưỡng (chuyên viên khoa học-kinh tế) và khỏang 15 người thuộc nhóm
chuyên viên được gọi là "Nhóm Thứ Sáu” . Nhóm này là những chuyên viên
tài chính,ngân hàng, thương mại, thuế vụ từng phục vụ các Chính phủ
dưới thời Việt Nam Cộng hòa.
Theo báo Tuần Việt Nam ngày 9-4-2010 thì tên gọi này bắt nguồn từ chỗ họ gặp nhau định kỳ vào chiều thứ Sáu hàng tuần.
Cựu Thủ tướng CSVN Võ Văn Kiệt, người miền Nam lúc bấy giờ đang làm
Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước đã tiếp xúc với các chuyên gia này
để tìm cách cứu nguy kinh tế đang đi xuống vực thằm, sau 2 đợt đánh Tư
sàn Mại Bản ở miền Nam của đảng.
Từ các cuộc họp bàn này mà quyết định phế bỏ chính sách bao cấp, tập
trung của miền Bắc đã thành hình đưa đến quyết định "Đổi Mới” ra đời
sau Đại hội đảng kỳ VI năm 1986.
Như vậy thì các lãnh đạo cực đoan miền Bắc lúc bấy giờ, đứng đấu bởi
nhóm bốn người Lê Duẩn-Trường Chinh-Phạm Văn Đồng-Lê Đức Thọ có công
trạng gì mà Nguyễn Trọng Phúc dám dâng cho đảng những công lao của các
chuyên gia người miền Nam khi viết rằng : "Đảng, Nhà nước cùng với nhân
dân đã từng bước khảo nghiệm để tìm con đường đổi mới”?
Hành động lấy áo gấm, vòng hoa của người khác trao cho đảng còn được Phúc vẽ cá thêm chân, vẽ rồng thêm cánh như thế này : "Trong
công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ một trong những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.”
Nhưng "dân chủ xã hội chủ nghĩa” là lọai dân chủ nào? Nguyễn Trọng
Phúc giải thích kiểu bảo hòang hơn vua rằng : "Dân chủ phải đi đôi với
tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân
chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng, mặt khác
phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân
chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách
mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân là mục tiêu quan trọng được ghi trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do
Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991. Hiến pháp 1992 khẳng định tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và thể chế hoá quyền làm chủ
của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, chú trọng quyền và lợi ích của nhân dân.”
Lậy Trời, lậy Phật nếu thật sự "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân” thì nhân dân đã có đủ cơm ăn, quần áo mặc, con cái được học
hành đến nơi đến chốn, có đấy đủ các quyền tự do và được sống hạnh phúc
ngang tầm thời đại với nhiều dân tộc trên thế giới từ lâu rồi chứ đâu
còn bị nghèo nàn, mạt rệp như bây giờ?
Vì vậy mà dù đến bây giờ, sau 25 năm sau "Đổi mới” đảng vẫn chưa
biết phải bắt dân "qúa độ lên chủ nghĩa xã hội” đến bao giờ hay dân
còn phải đai lưng lao động nhiều năm nữa mà vẫn chưa biết ngưỡng thiên
đàng của "xã hội chủ nghĩa” ở đâu?
Lãnh đạo của đảng CSVN đã chứng minh họ rất mù mịt và ấm ớ về vấn đề
này. Họ chỉ ba hoa rằng việc "quá độ lên xã hội chủ nghĩa” là hòan tòan
mới, phải mất nhiều thời gian vì chưa có tiền lệ. Họ mới phác họa được
một mốc thời gian phải đặt cho xong nển tảng của kế họach phát triển
đất nước, xây dựng con người và hệ thống lãnh đạo vào giữa Thế kỷ 21.
Sau đó sẽ tiếp tục "qúa độ” cho đến đích, nhưng ai không biết phải
phiêu lưu cho đến bao giờ!
Có điều chắc chắn là cho đến bây giờ, sau 35 năm cai trị cả nước không
một ai trong đảng CSVN dám cam kết khi nào thì dừng chân lại, không cần
phải "qúa độ” lên xã hội chủ nghĩa nữa.
Một nhúm người bảo thủ hàng đầu trong đảng CSCN bây giờ, trong đó có
Nguyễn Đức Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính Trị Trung ương Đảng vẫn mơ hồ
khằng định rằng chế độ Xã hội Chủ nghĩa chứ không phải Chủ nghĩa Tư
Bản sẽ là con đường lý tưởng trong tương lai của cả nhân loại!
Ai cũng biết đường lối kinh tế được gọi là "theo dịnh hướng Xã hội Chủ
nghĩa” hiện nay của Việt Nam là một bản sao kinh tế của Chủ nghĩa Tư
bản, nhưng đảng và nhà nước CSVN không dám nhận như thế.
CHUYỆN NHÂN QUYỀN
Bây giờ đến chuyện Nhân quyền của Việt Nam thì Phạm Bình Minh, Ủy viên
Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao đã cãi lý trên
Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2010 như thế này : "Những
thành quả quan trọng mà Việt Nam đạt được qua hơn 20 năm đổi mới về mọi
mặt, trong đó có lĩnh vực quyền con người, là minh chứng rõ rệt cho
chính sách bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Ðảng và Nhà nước Việt
Nam.”
Nhưng việc "bảo vệ” và "thúc đầy” quyền con người của đảng CSVN không
có nghĩa quyền bình đẳng của mọi công dân, không phân biệt thành phần
và khuynh hướng đã được đảng và nhà nước CSVN bảo đảm và nhìn nhận đúng
với tiêu chuẩn của đại đa số các nước trên thế giới.
Minh viết : "Từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập, tự do của
dân tộc, Ðảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm rằng nhân
quyền trước hết phải là quyền của mỗi người, mỗi dân tộc được thực hiện
quyền tự quyết, được sống trong độc lập, tự do và được phát triển về
mọi mặt; các quyền dân sự, chính trị phải đi đôi với các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa; quyền và tự do cá nhân phải gắn với lợi ích chung của
dân tộc và trách nhiệm đối với cộng đồng. Bảo đảm và thực hiện quyền
con người trước hết là trách nhiệm quốc gia, không thể có sự áp đặt từ
bên ngoài.”
Nhưng có ai "áp đặt” ai nếu các quyền tự do của nhân dân Việt Nam được
Nhà nước CSVN triệt để tôn trọng và áp dụng theo đúng với các Điều
khỏan đã ghi trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều Luật khác của Việt Nam.
Đằng này không những nhà nước CSVN không thi hành như đã hứa mà con
ban hành nhiều văn bản có tính pháp lý chồng chéo để có lợi cho nhà
nước và dễ dàng chống lại những ai không đồng ý với chính sách của
đảng.
Phạm Bình Minh biện bạch : "Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ:
chúng ta "chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người”;
"sẵn sàng đối thoại với các nước, các tố chức quốc tế và khu vực có
liên quan về vấn đề quyền con người”, đồng thời "phải kiên quyết làm
thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân
chủ”, "nhân quyền”, "tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thố, an ninh và ổn định chính
trị của Việt Nam”.
Chỉ thị 12 (1992) của Ban Bí thư về "Quyền con người và quan điểm, chủ
trương của Đảng ta” cũng nêu "sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác trong quan
hệ quốc tế vì quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi
dụng vấn đề này để chống phá ta”.
Lập luận của Phạm Bình Minh giống như kẻ lấy bùn đổ sang ao khi tìm
cách cãi lý quanh co để chống lại các lập luận lên án Việt Nam không
ngừng vi phạm quyền con người được phát biểu và quyền được phản ứng
bất bạo động của những người bất đồng ý kiến với nhà nước
Minh giải thích về lập trường của Việt Nam như thế này : "Tuy
nhiên, ta cũng khẳng định rõ việc thực hiện các quyền và tự do của mỗi
cá nhân đều phải trong khuôn khổ pháp luật và không ai có quyền đứng
trên pháp luật. Những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xét
xử theo pháp luật, đây là việc làm bình thường của mọi quốc gia trên
thế giới trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền. Đối với các đối tượng mà
Mỹ và các nước phương Tây quan tâm, ta chủ động đưa ra những bằng chứng
vi phạm pháp luật, khẳng định đây không phải các nhà hoạt động vì dân
chủ, nhân quyền mà là những cá nhân được sự hậu thuẫn của một nhóm nhỏ
người Việt ở nước ngoài tìm cách lật đổ Chính phủ Việt Nam, hằn học với
những thành tựu của đất nước, đi ngược lại mong muốn chung của cộng
đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước.”
Bằng chứng "tìm cách lật đổ Chính phủ Việt Nam” của các nhóm "người
Việt ở nước ngoài” là nằm trong kế họach "diễn biến hòa bình” rất mơ
hồ ư, hay đó chỉ là một cách nói để chụp mũ những người bất đồng
chính kiến mà không cần phải chứng minh?
Riêng đối với quan điểm về nhân quyền của Hoa Kỳ đối với Việt Nam thì Phạm Bình Minh bảo : "Với
Mỹ, đối thoại nhân quyền gắn với tiến trình quan hệ chính trị Việt - Mỹ
theo từng giai đoạn. Khó khăn trong đối thoại còn xuất phát từ việc
phe cực hữu và số Việt kiều phản động ở Mỹ luôn luôn tìm cách gây sức
ép, cản phá quan hệ hai nước và thúc đẩy các ý đồ xấu chống ta.”
Khi nói như thế thì Phạm Bình Minh có sờ lên gáy xem đảng và nhà nước
CSVN đã đối xử với những người bất đồng chính kiến hay đòi được quyền
tự do tôn giáo, tự do báo chí và tự do hội họp đã bị đàn áp như thế nào
từ 1975 đến nay?
Những trí thức như các ông Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Linh mục
Nguyễn Văn Lý, Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay Bác sỹ Nguyễn Đan Quế, Bác
sỹ Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Tòan cho đến các trí thức trẻ như
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy v.v… đã có âm
mưu lật đổ chính quyền như thế nào với hai bàn tay trắng mà họ vẫn bị
đàn áp trong bao nhiêu năm qua?
Như vậy thì khi phô trương thành tích dân chủ của 65 năm từ Cuộc Cách
mạng tháng 8/1945 cho đến việc xuyên tạc quyền đòi nhân quyền và các
quyền tự do của người dân có đem lại lợi ích gì cho đất nước không, hay
chỉ làm cho bộ mặt Việt Nam xấu xa thêm trước thế giới văn minh ở Thế
kỷ 21?
Phạm Trần
(08/010)
|