Ngô Nhân Dụng
|
Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, lập ra
triều đại nhà Minh (1368-1644), lên ngôi vua từ 1368-1398
|
Các nhà kinh tế biết rằng nạn tham nhũng làm cho quốc gia chậm phát
triển. Tham nhũng là một thứ thuế "phụ thu” làm nản lòng người đầu tư.
Tham nhũng là thêm một yếu tố bất trắc khiến người ta ngại làm ăn. Một
quốc gia đầy tham nhũng như Congo, Việt Nam, Campuchia, nếu nạn tham
nhũng giảm bớt được một nửa thì kinh tế có thể phát triển nhanh thêm
được 2 đến 3% một năm.
Nhưng ít có kinh tế gia nào nhìn vào vấn đề tham nhũng mà thấy như Phan
Bội Châu: Có bài trừ tham nhũng thì người dân một quốc gia mới phục hồi
được lòng liêm sỉ.
Giữa hai mục tiêu "phát triển kinh tế” và "phục hồi liêm sỉ,” bên nào
quan trọng hơn? Ðối với một người từng làm nghề nghiên cứu và dậy môn
kinh tế học, thì tôi xin trả lời rằng: Phục hồi liêm sĩ quan trọng hơn.
Bởi vì dân có liêm sỉ thì kinh tế có triển vọng tiến nhanh hơn; ngược
lại, kinh tế tiến bộ chưa chắc đã làm cho người ta có đức liêm sỉ.
Kinh tế thị trường đặt cơ sở trên lòng tin tưởng, tin vào con người và
tin vào các định chế xã hội. Những nước kinh tế phát triển cao nhất như
Mỹ, Nhật Bản, Ðức Quốc cũng là những nước mà lòng tin cậy giữa con
người với nhau trong xã hội cũng cao nhất. Ngược lại, có những nước
kinh tế cũng khá cao nhưng xã hội không xây dựng được một niềm tin
chung mạnh mẽ thì trình độ phát triển cũng bị giới hạn, sớm muộn sẽ
"đụng trần” không lên được nữa. Khi người dân một nước sống không biết
liêm sỉ thì chính nền kinh tế của họ sẽ khó phát triển. Không phải các
nhà đọa đức nói như thế mà chính các kinh tế gia phải công nhận điều đó.
Cho nên, chúng tôi muốn nhắc lại những ý kiến của Phan Bội Châu viết
trước đây hơn một thế kỷ, trong Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư. Cụ Phan viết,
"Phải tuyệt đường hối lộ để khích lệ lòng liêm sỉ.” Năm 1903 khi cụ
viết lá thư này, đức liêm sỉ vẫn còn được dùng làm thước đo giá trị
trong xã hội, những người liêm sỉ còn rất được kính trọng. Ngày nay,
trên báo chí ở nước ta ít người nói đến hai chữ liêm sỉ. Tình trạng
tham nhũng hối lộ thời cụ Phan, đầu thế kỷ 20 chắc chắn không rộng,
sâu, và những tham quan không trâng tráo ngang ngược chiếm đoạt của
công như bây giờ.
Nhưng 100 năm trước hay là bây giờ, vấn đề khó nhất vẫn là: Làm sao để giảm bớt nạn tham nhũng, hối lộ?
Phan Bội Châu thời đó là một nhà Nho lỗi lạc nhưng không sống trong
guồng máy chính quyền; thật ra, cả cuộc đời cụ không trải qua kinh
nghiệm "làm quan.” Cho nên, ngoài đề nghị giảm bớt thuế cho dân nghèo,
những lời kêu gọi "huyết lệ” của cụ thường chỉ nhắm vào mặt đạo đức cá
nhân. Cụ khuyến cáo hãy "thắt chặt tình trên dưới (giữa quan và dân),
mở rộng đường thẳng ngay... phải lấy công tâm mà làm việc...” vân vân.
Ðó cũng là lối chống tham nhũng, chống hối lộ suốt ngàn năm trong xã
hội cổ truyền ở Á Ðông. Trương Ðình Thưởng là một tể tướng thanh liêm
vào thế kỷ thứ 8 bên Tầu. Khi nhậm chức, ông ra lệnh cấp dưới phải tra
cứu lại một vụ án liên can tới nhân sĩ Vô Cô, một người ông kính trọng.
Ông yêu cầu trong 10 ngày phải cho biết kết quả xem vụ án có điều gì
sai trái hay không. Ngày thứ hai, ông ra công đường, thấy một mảnh giấy
đặt trên bàn viết mấy câu: Xin biếu ngài ba vạn quan tiền. Xin đừng hỏi
lại vụ án này nữa. Trương Ðình Thưởng lặng lẽ xé vụn mảnh giấy, không
cần hỏi tới. Sang ngày thứ ba, lại thấy một mảnh giấy khác: Xin biếu
ngài 5 vạn quan. Trương Ðình Thưởng nổi giận! Bèn rút ngắn thời hạn, ra
lệnh các "thanh tra” trong hai ngày phải xét xong vụ án cũ rồi phúc
trình đầy đủ. Ðến ngày tư, trên bàn lại có mảnh giấy khác: Xin biếu ông
mười vạn.
Lúc đó Thưởng mới giật mình, "Tiền đến 10 vạn là phải có phép thuật quỷ thần! Ta sắp mang họa đến nơi rồi!”
Bèn bỏ không tra cứu vụ án cũ nữa. Câu chuyện trên được Kỳ Ngạn Thần
kể, cho biết đã đọc trong cuốn Cổ Vũ U Nhàn của Trương Cố đời Ðường.
Không rõ có ai giao số tiền 10 vạn hay không, chúng tôi đoán là không.
Một người nắm quyền tể tướng trong sạch và cương quyết như Trương Ðình
Thưởng, cuối cùng chịu thua không chống nổi tham nhũng khi biết mình
"đụng tới quỷ thần.” Quỷ thần là thứ quyền hành tuyệt đối, cao hơn mạnh
hơn guồng máy pháp luật của quốc gia. Ðó là chuyện lịch sử thời Trung
Ðường bên Trung Quốc; đến thời Hậu Hồ ở Việt Nam bây giờ lịch sử cũng
ghi nhiều chuyện ngưng điều tra khác, kể ra không hết được. Ai đọc
truyện đời nay tới đoạn Nguyễn Việt Tiến PMU 18 được phục hồi danh
vọng, các nhà báo bị bắt bỏ tù; hoặc nghe vụ Hành Lang Ðông Tây Sài Gòn
thấy Huỳnh Ngọc Sỹ bình tĩnh thản nhiên mặc dù công ty PCI Nhật Bản
khai đã đưa lót tay ông ta hàng triệu Mỹ kim, cũng có thể suy ra rằng
mọi cuộc điều tra, mọi hoạt động của guồng máy tư pháp đều bắt buộc
phải ngưng lại. Cũng vì đã "đụng tới quỷ thần” rồi!
Ðời xưa, quỷ thần là do quyền hành tuyệt đối của ông vua mà sinh ra. Vì
quyền vua tuyệt đối, không bị giới hạn mà cũng không được định nghĩa rõ
ràng, cho nên không ai đoán trước được nó như thế nào. Nên mới sinh ra
quỷ thần. Rất nhiều người có thể dựa hơi ông vua mà bỗng nhiên có quyền
thế ngất trời. Bố một người đầu bếp giúp vua hài lòng vì ăn ngon miệng;
hay em ruột một phi tần được nhà vua sủng ái; hàng trăm hàng ngàn người
giống như vậy, người nào cũng có thể có cơ hội xin vua gia ân hoặc
giáng họa cho người khác. Dù ông vua muốn làm sạch chế độ của ông ta,
nhưng nếu ông tể tướng đụng tới quyền lợi của những người này là sẽ
thất bại. Ðúng là đụng tới quỷ thần!
Ngày nay, quyền hành của Ðảng Cộng Sản cũng tuyệt đối không khác gì
quyền ông vua đời xưa. Ðảng Cộng Sản nguy hiểm hơn vì nó rất mập mờ bí
ẩn, khó nhận diện, và vô trách nhiệm. Không có một ông vua cụ thể nào
đứng ra nói "tôi quyết định.” Ai chịu trách nhiệm khi tòa án Nhật Bản
truy tố các nhà kinh doanh Nhật hối lộ ở Việt Nam? Không thấy ai trong
cái bộ máy tối cao vô hình đó cả. Ðảng Cộng Sản đúng là một thứ quỷ
thần vô danh vô tướng.
Ví thử có một ông tổng bí thư cộng sản quyết tâm muốn bài trừ tham
nhũng, liệu ông hay bà ta có khả năng làm hay không? Trong cuốn tiểu
thuyết Thiên Nộ (Cơn giận của Trời) của Trần Phong, kể chuyện guồng máy
tham nhũng tại thành phố Bắc Kinh, một nhân vật nói, "Hoàng đế nhà
Minh, Minh Thái tổ, bắt được quan lại tham nhũng thì đem lột da rồi
trưng bầy bộ da cho các quan chức coi mà sợ, đừng tham nhũng nữa.”
Nhưng anh ta, một cán bộ trong sạch trong guồng máy, nhận xét, "Biện
pháp đó không ăn thua gì cả. Tại sao? Vì cả hệ thống cai trị sinh ra
tham nhũng. Mà điều quan trọng nhất là: Không có một hệ thống kiểm tra
nào của dân, độc lập với nhà nước để theo dõi.” Kết luận: "Chu Nguyên
Chương chỉ thi hành các biện pháp chắp vá để chống tham nhũng!” Ngay cả
việc lột da các quan ăn hối lộ cũng chỉ là chắp vá! "Muốn thành công
chúng ta phải có cách nhìn toàn bộ,” cuốn tiểu thuyết khuyến cáo!
Cách nhìn toàn bộ nào? Phải thay đổi toàn thể hệ thống, nghĩa là phải
bãi bỏ tình trạng chuyên chế độc tài của một đảng! Chính cái đảng cầm
quyền tuyệt đối, trên đầu không có ai, chính nó là nguồn gốc sinh ra
tham nhũng. Dù có thay thế cái đảng đó bằng một đảng khác, dùng toàn
những bộ mặt mới, con người mới, nhưng nếu vẫn giữ cơ chế độc quyền và
quyền hành tuyệt đối, thì vẫn hỏng. Cơ chế vẫn như cũ, thì làm gì cũng
vẫn chỉ là biện pháp chắp vá mà thôi! Chính cơ cấu độc quyền chuyên chế
đẻ ra nạn tham nhũng, chứ không phải vì có những con người xấu mà sinh
ra tham nhũng. Quyền hành sinh nhũng lạm, quyền hành tuyệt đối thì
nhũng lạm tuyệt đối.
Chúng ta sống sau cụ Phan 100 năm, hiểu rõ hơn về xã hội cũng như guồng
máy chính trị của loài người, cho nên biết những lời khuyến cáo đạo đức
rất quý báu nhưng không đủ. Phải tìm trị căn nguyên của bệnh tham nhũng
và hối lộ do các định chế chính trị sinh ra. Chuyên chính là nguồn gốc
của tham nhũng, vì nó trao quyền hành tuyệt đối vào tay một nhóm người
không chịu trách nhiệm với ai cả. Năm 1958, ngày 28 tháng 1, ông Hồ Chí
Minh nói chuyện với các "học sinh” Trường Công An Trung Ương, ông hỏi
họ, "Các cô các chú có muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội hay không?” Và
ông nhắc đi nhắc lại một khẩu hiệu rất nhiều lần, "Dân Chủ và Chuyên
Chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thật sự phải chuyên chính thật
sự... Có chuyên chính thật sự, có dân chủ thật sự thì mới tiến lên chủ
nghĩa xã hội được...” (Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 9, trang 29).
Ðó là chủ nghĩa Lê Nin. Muốn chống tham nhũng có hiệu quả, phải gột rửa
tư tưởng Lê Nin Nít đó trước hết. Chỉ khi nào trong cơ cấu chính trị
quốc gia có phân quyền, có các cơ quan quyền lực ngang hàng để cân bằng
và kiểm soát lẫn nhau, chúng ta mới hy vọng bắt đầu chống tham nhũng.
Khi nào người dân được tự do nói, tự do hội họp, tự do bầu cử và ứng
cử, thì mới thiết lập được các định chế phân quyền. Nếu chưa có các
điều kiện đó, nói gì cũng chỉ là nói xạo mà thôi.
Nghe nói xạo mãi, người dân khinh bỉ bọn cầm quyền. Nhưng chính người
dân cũng bị tác hại: Nghe nói dối quen, người ta mất cả khái niệm về
danh dự, về liêm sỉ. Ngày xưa Phan Bội Châu khuyên dân tộc Việt Nam
phải bài trừ tham nhũng để người dân phục hồi đức liêm sỉ. Một thế kỷ
sau, điều này còn khẩn cấp hơn thời cụ Phan viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân
Thư gấp trăm, gấp ngàn lần!
|