Kim Tuấn
Trong lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ lãnh
đạo của họ lại bế tắc như hiện nay. Dĩ nhiên, ngay trước mắt là những bế
tắc về tư tưởng chỉ đạo hay chủ thuyết nền tảng, những bế tắc trong nỗ
lực gán ép miễn cưỡng 2 hệ kinh tế ngược chiều, nhưng quan trọng hơn nữa
là họ không còn thấy tương lai phía trước. Hay nói cách khác, họ đã cảm
được sâu xa trong lòng, tương lai không thuộc về họ.
Trong quá khứ, vào thời chiến tranh bị thúc đẩy và chỉ
đạo bởi cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, với mục tiêu bành trướng khối
cộng sản, thống trị thế giới, CSVN được cung cấp đầy đủ mọi mặt để đơn
thuần đóng trọn vai một người lính xung kích cho thế giới đỏ. Thật vậy,
trong cuộc chiến tranh này họ đã nhận từ các đàn anh, đặc biệt là từ
Cộng Sản Trung Quốc sự giúp đỡ to lớn và toàn diện từ chính trị đến
ngoại giao, kinh tế, cách thức xiết chặt xã hội, chiến lược chiến thuật,
vũ khí, kỹ thuật, và ngay cả nhiều sư đoàn lính Tàu trên đất Việt.
Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, sát nhập hai miền mà họ
gọi là "thống nhất”, lãnh đạo Đảng chính thức chọn Liên Xô làm chỗ dựa
để lấn chiếm Miên, Lào, và cắt cầu với Trung quốc. Người "đồng chí lớn"
trước đây trở thành kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp, và rất thâm hiểm suốt
từ thời kháng Pháp (theo 3 tài liệu đảng CSVN phát hành vào đầu thập
niên 1980). Và cái giá cho sự "đổi chiều” này là cuộc chiến Biên giới
1979 với rất nhiều tàn phá, chết chóc.
Một điều mà thế giới cộng sản không bao giờ lường được
là Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Có thể nói chính sách tuyên truyền về sức
mạnh vô địch của Liên Xô không chỉ bịt mắt dân chúng mà còn thuyết phục
luôn cả giới lãnh đạo mọi nước cộng sản đàn em. Không ai còn nhìn ra các
nguồn lực thật của Liên Xô, nhìn ra sự tê liệt dần dần của những xã hội
với nền kinh tế tập trung, nhìn ra sự chuyển động của cục diện thế giới
đằng sau các cuộc chạy đua vũ khí và vũng lầy Afghanistan. Ngay cả đến
thời điểm này, giới lãnh đạo CSVN vẫn từ chối chấp nhận công khai những
nguyên nhân khách quan dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, và vẫn
không công nhận tự do, dân chủ và nhân quyền là xu thế của cả nhân loại
ngày nay. Họ còn khẳng định tình trạng hiện nay chỉ là bước lùi "giai
đoạn" của CNXH toàn cầu.
Tuy tiếp tục mạnh miệng như thế nhưng trong hành động,
người ta thấy rất rõ lãnh đạo Đảng biết chắc con đường xây dựng xã hội
XHCN không chỉ là "ngõ cụt" mà còn là "đường tử". Chính vì vậy mà hệ
thống kinh tế tập trung XHCN đã bị xóa bỏ gần hết để thay bằng hệ thống
kinh tế tư bản. Dù cố nặn ra tên gọi gì đi nữa thì loại kinh tế hiện nay
chính là loại "kinh tế tư bản bóc lột" mà họ từng lên án thậm tệ trong
suốt lịch sử đảng kéo dài tới đầu thập niên 1990. Rõ ràng lãnh đạo Đảng
đã quyết định xoay sang con đường khác.
Trong tình trạng cuống cuồng hoảng loạn vì mất chỗ dựa
Liên Xô, bị cô lập trên thế giới và khủng hoảng toàn diện, cùng với
truyền thống không thể sống thiếu chỗ dựa, lãnh đạo CSVN đành muối mặt
xin thần phục trở lại với Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Hiển nhiên, Bắc
Kinh chưa quên mối thù cũ và càng muốn khai dụng tối đa tình trạng yếu
nhược của lãnh đạo CSVN.
Và thế là suốt từ giữa thập niên 1990 đến nay, Hà Nội
hầu như không dám từ chối Bắc Kinh bất cứ chuyện gì. Khởi đầu là các
Hiệp Ước Biên Giới Trên Bộ, Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ mà nhiều phần
da thịt Việt Nam bị cắt rời. Kế đến là các làn sóng xâm lấn tràn ngập
về kinh tế và văn hóa bất kể các hệ quả. Trên biển Đông, hải quân Trung
Quốc coi cả nhà nước Việt Nam như không có, khi tùy hứng bắn, giết,
cướp, bắt giữ ngư dân Việt bất cứ lúc nào, và gọi thẳng đến nhà thân
nhân trên đất Việt Nam bắt nộp tiền chuộc. Cùng lúc đó, Hà Nội không dám
ngay cả gọi đích danh hải quân Trung Quốc khi loan tin về ngư dân chứ
chưa nói gì đến ý nghĩ dám bảo vệ họ. Và càng khiếp nhược hơn nữa, khi
trong quân sử lẫn khi làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ
Trường Sa vào tháng 5/2010, các cấp chỉ huy quân đội, theo chỉ thị từ Hà
Nội, vẫn chỉ dám nói các chiến sĩ này bị "hải quân nước ngoài" giết
hại; và còn vô số các dẫn chứng khác nữa tràn ngập trong mọi ban ngành
nhà nước và xã hội Việt Nam.
Thật khó cho đại khối dân chúng hiểu nổi sự tương phản
cực lớn giữa 2 thái độ — tại sao lãnh đạo Đảng có thể hung bạo với dân
chúng đến thế mà lại hèn hạ với giặc đến vậy! Không lẽ 15 cái đầu trong
Bộ Chính Trị đều chỉ biết thi đua về bản năng chịu nhục để giữ ghế?
Nhưng có chắc con đường ôm Bắc Kinh bằng mọi giá đó sẽ
giúp họ giữ được ghế không?
Trước hết, lãnh đạo đảng CSVN dư biết Bắc Kinh sẽ chẳng
bao giờ quên sự trở cờ trong quá khứ và không ngừng hoài nghi mọi toan
tính của Hà Nội ở hiện tại. Và vì thế, chắc chắn trong những ngày tháng
tới Bắc Kinh sẽ chỉ tiếp tục gia tăng các lấn lướt, khai dụng tối đa
tình trạng yếu nhược của giới cầm quyền Việt Nam để đẩy nhanh hơn tham
vọng bành trướng ảnh hưởng của họ tại Đông Á và Đông Nam Á. Cửa sổ cơ
hội này sẽ không còn nếu Việt Nam có một chính quyền dân chủ. Và càng
lún vào vũng lầy lệ thuộc, các lãnh đạo Hà Nội càng chỉ có thể dâng
nhượng thêm nữa chứ không có sức nhảy ra khỏi lầy. Đơn giản là vì phía
Trung Quốc nắm quá nhiều bí mật bán nước của họ và dùng chính những bí
mật đó để ép buộc những "hợp tác" mới. Ai còn xa lạ với thủ thuật này
của Bắc Kinh xin cứ ôn lại các đợt Trung Quốc cho công bố những tấm hình
bí mật về tình duyên, những dữ kiện nửa đóng nửa mở về gia phả, và ngay
cả những tài liệu ghi chép về nguyên nhân tử vong của ông Hồ Chí Minh
trong vài năm gần đây. Rõ ràng sau mỗi đợt công bố như vậy, Ban Tuyên
Giáo Trung Ương Hà Nội không hề dám lên tiếng phủ nhận hay tranh luận về
tính khả tín của các tài liệu, mà chỉ ra sức hát bài ca ngợi "16 chữ
vàng — 4 tốt" lớn hơn nữa. Từ những dấu hiệu trên bề nổi đó, câu hỏi khá
hiển nhiên là nhượng bộ nào lại được Hà Nội đưa ra bên dưới để Bắc Kinh
tạm ngưng từng đợt "quảng bá dữ kiện lịch sử" vừa kể?
Nhưng Hà Nội cũng biết đây không phải là giải pháp lâu
dài và sẽ nhanh chóng đi đến chỗ bế tắc. Vì với mỗi hành động bán nước,
lãnh đạo Đảng biết sự phẫn nộ của người dân Việt Nam lại dâng lên một
độ, và uy tín của lãnh đạo Đảng lại tuột xuống một cấp. Người dân và
quần chúng đảng viên càng lúc càng thấy rõ bản chất ích kỷ cùng cực và
vô đạo đức của lãnh đạo Đảng khi sẵn sàng tháo bán tất cả để giữ ghế cai
trị. Nhận thức này cũng sẽ giải thích và xóa sạch những điều mà lãnh
đạo Đảng gọi là công trạng của họ đối với đất nước trong quá khứ. Đảng
chỉ lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân và tiến hành các cuộc chiến
tranh để dọn đường lên nắm quyền theo chỉ thị của cộng sản quốc tế mà
thôi. Cùng lúc đó các lằn nứt trong những lực lượng bảo vệ Đảng sẽ hằn
sâu và mở rộng. Cụ thể như trong hàng ngũ Quân Đội Nhân Dân. Hiện nay,
tư tưởng "Quân đội phải bảo vệ Đảng" tuy càng ngày càng lộ nét vô lý
nhưng vẫn còn được nhiều người tạm chấp nhận. Nhưng một khi mọi người
đều nhận ra "Quân đội đang bảo vệ Đảng bán nước" thì sẽ vô cùng khó cho
những người chiến sĩ Việt Nam tiếp tục im lặng chấp nhận. Tại sao họ
phải đưa tính mạng ra bảo vệ cho một thiểu số phản bội đất nước? Và
trước hiểm họa mất nước, sự kết hợp giữa các lực lượng yêu nước sẽ càng
dễ dàng hơn. Công cuộc chống quân xâm lược Trung Quốc càng đồng nghĩa
hơn với nỗ lực chấm dứt hành động bán nước của giới lãnh đạo CSVN.
Chính vì thấy rõ chỗ bế tắc chung đó của con đường ôm
Bắc Kinh hiện tại mà giới lãnh đạo CSVN ở thượng tầng đều đang tìm những
lối thoát riêng. Tùy theo vị trí đang nắm giữ, mỗi nhân sự đang ráo
riết cho gia đình và mạng làm ăn của mình đào, nạo, cào, vét gấp rút.
Được bao nhiêu họ chuyển hết tài sản ra nước ngoài và ra sức tẩy rửa các
nguồn tiền. Và dĩ nhiên, chuẩn bị phương tiện để thoát chạy ngay khi
cần thiết. Thỉnh thoảng, người dân thường được biết những nỗ lực tẩu tán
của con cái ông Đỗ Mười tại Houston, Hoa Kỳ; con cái ông Trường Chinh
tại Pháp; con cái ông Phan Văn Khải ở Singapore; các trương mục của ông
Lê Đức Thúy ở Thụy Sĩ, v.v... Cả một cơn sóng ngầm đang cuồn cuộn đẩy
tài sản ra khỏi Việt Nam. Tuy tiếp tục nói mạnh miệng, y như các đồng
chí của họ vào giai đoạn cuối của Đông Âu vào những năm 1980, giới lãnh
đạo CSVN biết họ đang sống những ngày tháng mượn — còn vét được ngày nào
cố vét tối đa ngày đó... rồi đi.
Trước tình trạng này, câu hỏi được đặt ra là:
- Những cán bộ Đảng, đặc biệt là công an cấp trung và
thấp, sẽ tiếp tục ra sức đàn áp nhân dân để bảo vệ chế độ bao nhiêu lâu
nữa? Họ tiếp tục nợ thêm máu nhân dân để làm gì? Họ có phương tiện để
thoát thân riêng như cấp lãnh đạo Đảng không?
- Nhưng quan trọng hơn nữa, dân tộc Việt Nam có thể tiếp
tục chấp nhận vận tốc đào khoét và tháo bán đất nước của lãnh đạo đảng
CSVN như hiện tại thêm bao nhiêu lâu nữa?