1) Mở đầu
Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một
biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy -
một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với
những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua"
đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp
hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc
biệt nêu trên.
Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã
may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết
rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng
tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định
thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm
trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã
phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn
đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên
bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem
thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn
kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.
2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?
Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa
đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận.
Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại"
("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C.
vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi
tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ
Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John
Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng
Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng
không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra
thảm họa 30.04.1975?
Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau
30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều
tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có
Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm
họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng
tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho
biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam
kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm
họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì
căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày
9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.
Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy
cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc
tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.
- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.
- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ
cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được
nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan
trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có
nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc
Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và
dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng
Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại
của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người
Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có
thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với
CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng
sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì
các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ
rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do
Thái.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng
Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ
Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng
số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu
tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được
điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình
báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ
năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người
Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận
biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu,
điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định
của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên
Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa
Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm
nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh
sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân
tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận
định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có
chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách
đó được thực hiện qua Kissinger.
3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?
a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ
Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được
Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc
Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt
lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư
Huy hoàn toàn đúng.
Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan
(xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans)
mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như
Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái
Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái
và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia
.org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List). Thực sự nếu
nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn
nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở
các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân
biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao
Quang Ánh!).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh...
Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood,
nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn
đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg,
Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem
website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_
entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng
dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời
Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược
nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và
dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy
âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy
(Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không
bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái
tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho
rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết
về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước
của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước
và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường
được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng
đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường
lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo,
họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl
trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ
đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2
và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở
để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong.
Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia
mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu
hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả
Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ
mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam
kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto)
nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ
rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn
"sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang
lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái
lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào
thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan
trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do
Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa
Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc
gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi
tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém
khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không
còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong
quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết
bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục
tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên
1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ
quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ
Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891
- 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng
viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái
muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn
Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được
phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí
Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào
30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu
luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên
trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng
nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính
sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi
cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở
đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu
gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ
kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ
Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông
Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một
phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không
những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .
Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột
tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí
chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ.
Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết
ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc
chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường
VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ
nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản
chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới
năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca
ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không
hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền
Nam!
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào
tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh
chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử
viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã
gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller
(Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng
Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối
cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân
theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.
Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng
máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James
Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)...
Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ
rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau
biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và
bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với
chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao
Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước
Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới,
nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho
quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh
khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong
việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội
Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã
sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như
tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.
Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố
vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:
"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:
" Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện
trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì
lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày
6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu
tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn
phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng
nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ
lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy
nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc
phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.
4) Kết luận
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do
Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến
trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng
trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái
phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới
lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến
Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ
thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái
hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng
bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị
xí gạt.
Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ:
Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại"
("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C.
vào ngày 9.4.2010 lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972
muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền
Nam (chịu thua ! vì đang câu con cá to hơn ("has bigger fish to fry”) .
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào
Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc
tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển
người hy sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét
của Tướng Westmoreland !), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của
thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng "Đồng
Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH.
Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền
của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận .
Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống
Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của
ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy
tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản
như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái
(một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa /
Exodus " của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và
chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về
tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối
Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê
vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)".
Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi
tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích
nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do
Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới
hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã
đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975
và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu
khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn
bị sai lầm nữa. Mong thay !
Bài viết của:
Phạm Trần Hoàng Việt
(Tháng Tư Đen 2010)