Kami.
Phong trào đầu
tranh vì một nền dân chủ thực sự cho Việt nam kéo dài đã nhiều chục
năm, trước thời đại internet từ những năm 80 của thế kỷ trước, người ta
biết tới các chiến dịch vận động dân chủ cho Việt nam của cộng đồng
người Việt ở hải ngoại dưới nhiều hình thức cả bạo động (dùng các nhóm
có vũ trang thâm nhập lãnh thổ Việt nam) và bất bạo động thông qua các
loại hình phương tiện truyền thông. Đặc biệt trong những năm 2003-2006
phong trào này ở trong nước xuất hiện và phát triển mạnh mẽ nhất là vào
giai đoạn Việt nam chuẩn bị ra nhập WTO (Tổ chức thương mại thế giới).
Nếu
nhìn lại trong quá khứ trước đây để so với những tiến bộ đạt được một
phần nào đó trong đời sống xã hội ở nước ta, đặc biệt là quyền tự do
của người dân so với trước đổi mới 1986 thì có nhiều chuyển biến theo
chiều hướng tích cực hơn, ví dụ như việc tự do đi ra nước ngoài du
lịch, làm ăn của công dân, quyền tự do tín ngưỡng kể cả mê tín dị đoan
v.v.. điều mà trước năm 1986 là điều cấm kỵ và là giấc mơ của đa số dân
chúng trong sự kìm kẹp của một nền chuyên chính vô sản của chính
quyền. Xin dẫn ra những chuyển biến mang tính tích cực và cởi mở hơn để
thấy những cái đó không phải kết quả của công cuộc đấu tranh cho dân
chủ mang lại, mà là sự tiến bộ của sự cởi mở trong chính sách của chính
quyền.
Lấy thời điểm năm 1980 làm mốc khởi đầu cho công cuộc
vận động cho một nền dân chủ ở Việt nam đến nay (2010) là vừa tròn 30
năm, thử kiểm điểm lại công cuộc đấu tranh và vận động cho dân chủ ở
Việt nam thì thành tựu đạt được quá khiêm tốn so với sự thất bại đặc
biệt là sự tổn thất về nhân lực của các nhà bất đồng chính kiến dũng
cảm lộ diện đương đầu và thách thức với chính quyền như Đỗ Nam Hải, Lê
Hồng Sơn, Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Trần Khải
Thanh Thủy, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức ...Đó
là một cuộc đương đầu không cân sức giữa những người trí thức với tay
không một tấc sắt, vũ khí duy nhất của họ là lòng dũng cảm cộng với bàn
phím computer và một bên là một chính quyền nhà nước với quyền lực,
bạo lực của công an và nhà tù.
Việc đối đầu như vậy mà những
người đấu tranh tự gọi là đấu tranh bất bạo động và họ hy vọng rằng
những hành động như vậy sẽ có khả năng giành được thắng lợi như từng
xảy ra ở Ấn độ với sự lãnh đạo của Gandi trước thực dân Anh, hay các
cuộc cách mạng màu đã xảy ra ở Đông Âu những năm đầu thập kỷ 90 với kết
quả của sự sụp đổ của phe XHCN đứng đầu là Liên xô hay gần đây là ở
Ucraina, Iran, Tây tạng...
Đấu tranh bất bạo động đó chỉ là ảo
tưởng, những người theo chủ trương này nghĩ rằng, bằng sự tuyên truyền
của họ trong thời đại internet có sức mạnh gấp ngàn lần những máy fax ở
Balan những năm trước đây, mà qua đó có thể đem lại sự thắng lợi kỳ
diệu lật đổ chính quyền cộng sản tại các nước Đông Âu, mà họ quên rằng
một trong những nguyên nhân quan trọng ở Đông Âu khi đó là đời sống
kinh tế quá kiệt quệ và đói khổ của nhân dân các nhà nước XHCN đã thúc
đẩy mọi người xuống đường trước hết là để cứu cái dạ dày của cá nhân và
gia đình họ. Bối cảnh đó khác hoàn toàn với kinh tế Việt nam hiện nay,
người dân Việt nam hiện tại những người có tri thức và có điều kiện
tiếp cận với internet, đa phần trong số họ tạm thỏa mãn với cuộc sống
hàng ngày của họ, họ say mê kiếm tiền làm giàu bằng mọi cách. Ho chỉ
nghĩ tới bản thân và gia đình họ, rất ít người quan tâm tới những người
xung quanh nhất là quan tâm đến tầng lớp những người lao động chân tay
như công nhân, nông dân và các thành phần nghèo khác trong xã hội.
Cuộc
đấu tranh cho một nền dân chủ hiện tại ở Việt nam chỉ dừng lại bằng
các bài viết trên mạng internet của các bloggers chỉ ra những khiếm
khuyết, những thói hư tật xấu của xã hội Việt nam hôm nay dưới sự lãnh
đạo của Đảng CSVN cũng chỉ có tác dụng vạch trần những nhược điểm,
những tồn tại của chính quyền mà không hề gây một áp lực "bất ổn" đáng
kể nào đối với chính quyền trong việc duy trì ổn định về mặt chính trị.
Mà ngược lại chính quyền lại dựa vào đó ngày càng gia tăng đàn áp đối
với các blogger, các nhà bất động chính kiến ở mức độ và cường độ ngày
càng gia tăng hơn, năm 2009 và đầu năm 2010 là những dẫn chứng cụ thể.
Lấy
Thái lan làm ví dụ về cách mạng mầu, hiến pháp và luật pháp Thái lan
tôn trọng tuyệt đối quyền tự do biểu tình của công dân, trong đợt khủng
hoảng chính trị nhiều năm qua của đất nước này, người ta thấy tồn tại
các lực lượng ủng hộ cho khác phe phái khác nhau dưới các màu áo biểu
tượng như áo vàng, áo đỏ và áo xanh. Các lực lượng quần chúng theo từng
mầu áo đó được các thế lực chính trị đừng sau thao túng, hỗ trợ tiền
bạc, vật chất trang bị cùng đồng lòng xuống đường biểu tình phản đối
chính phủ. Thời gian thì có thể là nhiều ngày có thể kéo dài nhiều tháng
trên tinh thần bất bạo động và không sử dụng vũ khí. Những người tổ
chức các cuộc biểu tình đó hỗ trợ và chu cấp cho người biểu tình mọi mặt
từ việc đón người biểu tình từ các tỉnh về thủ đô, đảm bảo các điều
kiện tối thiểu như ăn, ngủ, quần áo, tắm giặt và trả cả tiền thù lao
(1.000 baht/ngày) cho người tham gia biểu tình. Mục đích của những người
tổ chức biểu tình là nhằm gây tình trạng bất ổn, xáo trộn đời sống dân
chúng thủ đô để gây áp lực lên chính phủ. Như vậy vẫn chưa đủ, ở Thái
lan những ngày có biểu tình, người ta thường thấy còn có những thế lực
mờ ám đã gây ra các vụ nổ bằng lựu đạn, chất nổ ở các trọng điểm nhằm
gây sự hoảng loạn của dân chúng nhằm tạo thêm áp lực lên chính phủ.
Trong cuộc biẻu tình gần đây nhất từ ngày 12/3 đến nay tình thế đó đã
buộc Thủ tướng Thái lan đã chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với lãnh tụ
của cuộc biểu tình trong hai ngày 27 và 29/3/2010 vừa qua để giải quyết
bế tắc.
Bằng mọi nỗ lực toàn diện trên nhiều mặt bằng rất nhiều
các hình thức khác nhau, vậy mà thắng lợi của các cuộc biểu tình đó chỉ
là hy hữu, hay nói thẳng thắng lợi là rất hiếm hoi, người biểu tình
chỉ hy vọng bằng các áp lực đó buộc chính quyền phải quan tâm xem xét
và giải quyết các yêu sách của họ đưa ra. Luật pháp Thái lan ghi rõ,
người biểu tình ôn hòa có quyền tuần hành trên đường, tụ tập biểu tình ở
mọi khu vực trên tinh thần bất bạo động được chính quyền hỗ trợ,
nghiêm cấm chính quyền có các hành động cấm đoán hay đàn áp người biểu
tình thực hiện các quyền tự do tối thiểu của công dân. Tóm lại cách
mạng màu ở Thái lan là chuyện cơm bữa, biểu tình có tiền hỗ trợ, có
luật pháp ủng hộ và cho phép, vậy mà hy vọng thắng lợi trước một chính
quyền nắm luật pháp, quân đội, cảnh sát mà chỉ là ảo tưởng. Việc đó nếu
có xảy ra ở Việt nam với sức mạnh của chuyên chính vô sản, quân đội và
cảnh sát sẵn sàng xả súng vào đoàn người biểu tình cũng chỉ là một ảo
tưởng hão huyền và là chuyện đùa.
Những người chủ trương đấu
tranh cho một nền dân chủ ở Việt nam hiện tại thường có hy vọng một
thời điểm thích hợp nào đó, sẽ tạo nên được một cuộc xuống đường của
đông đảo quần chúng nhân dân theo kiểu biểu tình bất bạo động thì suy
nghĩ đó quá đơn giản mà không thực tế chút nào. Họ cần phải hiểu rằng
những cuộc biểu tình với quy mô lớn chỉ có thể giành được thắng lợi khi
nó tạo được đủ áp lực để buộc chính quyền chấp nhận ngồi vào bàn đàm
phán với những người lãnh đạo biểu tình để xem xét các yêu sách chính
đáng phù hợp với luật pháp quốc gia mà thôi. Nói thì rất đơn giản nhưng
thực tế cho thấy nó là một điều không hề dễ chút nào, đối với ngay cả
một chính quyền tôn trọng quyền biểu thị suy nghĩ của công dân qua hành
động biểu tình, mà đó là quyền tự do tối thiểu của công dân được Hiến
pháp ghi nhận như ở Thái lan mà thắng lợi vô cùng mong manh thì huống
chi nói gì tới một chính quyền thích sử dụng luật rừng như ở Việt nam
thì việc đó chỉ là một điều hoang tưởng quá xa vời.
Công cuộc
đấu tranh cho một nền dân chủ thực sự ở Việt nam đừng quên rằng nó khó
khăn gấp bội, bởi đó là một nhà nước độc tài cộng sản. Với nó không thể
chỉ đơn thuần là dùng đấu tranh bất bạo động thông qua một cuộc biểu
tình ôn hòa với số lượng quần chúng đông đảo khó mà thành công được,
Thiên An Môn năm 1989 là một bài học để đời cho những ai nghĩ rằng
chính quyền CS cũng như các chính quyền nhà nước khác, là không dám xả
súng và dùng xe tăng đè bẹp đám đông biểu tình. Nhưng thực tế đã trả
lời suy nghĩ đó là sai lầm, với chính quyền cộng sản không có hai chữ
nhân đạo, nhất là đối với các hành động đe dọa sự tồn tại của một chính
quyền của họ.
Có lẽ ngay từ bây giờ, những người đấu tranh cho
dân chủ ở Việt nam nên thay đổi suy nghĩ, rằng cuộc đấu tranh mà họ
đang tiến hành nó phải là sự kết hợp giữa "talk and war" mới tạo đủ áp
lực buộc chính quyền ngồi vào bàn để đối thoại và đàm phán, nên nhớ
rằng talk và war nó là hai công việc cần phải tiến hành song song song
để giải quyết một vấn đề, thiếu một trong hai thì cuộc đấu tranh khó mà
thành công.
Hy vọng đây cũng là một ý đáng để cho các đảng phái
chính trị và mọi người suy nghĩ cho các bước tiếp theo của phong trào
đấu tranh vì dân chủ cho Việt nam.
30/3/2010.
©2010 Kami
|