Ngô Văn
Những năm liền sau năm 1975, cứ mỗi lần 30 tháng tư là
báo chí nước ngoài đưa tin tràn ngập về ngày này theo chiều hướng thuận
lợi cho chính quyền Hà Nội. Nhiều mỹ từ đã được dùng để nói về cuộc
chiến đó. Nào là "cuộc chiến giải phóng miền Nam”, hay "quân đội nhân
dân đã đánh bại anh khổng lồ Mỹ quốc”, v.v... Nhưng càng về sau này, khi
lớp bụi chiến tranh lắng xuống và những tài liệu liên quan đến cuộc
chiến Việt Nam dần dần được bạch hoá thì những nhận định về cuộc chiến
đó cũng ngày càng công bằng và khách quan hơn. Những mỹ từ dạo trước
được dành cho chế độ cộng sản tại Việt Nam cũng dần dần biến mất.
Về phần lãnh đạo đảng CSVN, sau chiến thắng năm 1975,
thay vì lợi dụng thời cơ này để xoá bỏ hận thù, đoàn kết dân tộc hầu tái
thiết đất nước sau bao năm bị chiến tranh tàn phá, thì họ trở nên kêu
ngạo hơn; tự cho mình có một sức mạnh vô địch, không ai có thể chống lại
được. Sự kêu ngạo này đã đưa họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác; mà
mỗi sai lầm là một sự tàn phá đất nước ghê gớm về mọi mặt, từ tinh thần
cho đến vật chất. Chính sách tù cải tạo, đánh tư bản mại sản, cải tạo
công thương nghiệp, kinh tế mới, v.v… là những sai lầm điển hình nhất.
Thật ra ngay sau năm 1975 dân chúng ở miền Nam đã chống
đối lại những sự sai lầm đó dưới nhiều hình thức, từ đấu tranh vũ trang
đến luồn lách phá hoại ngầm các chính sách, hoặc bất hợp tác. Nhưng vào
thời gian đó CSVN đang ở đỉnh cao của chiến thắng, đặc biệt là bằng
những chính sách khủng bố rộng lớn để trấn áp và tạo nên nỗi sợ hãi bao
trùm xã hội; CSVN dập tắt được nhiều sự phản kháng bằng bạo lực, trong
nhiều trường hợp rất dã man. Tâm trạng chung của người dân Việt Nam lúc
là bi quan, chán nản. Hầu hết gần như xuôi tay đứng nhìn đất nước đi
thụt lùi, cúi đầu chấp nhận sự cai trị ngu dốt và đầy hận thù của những
người lãnh đạo cộng sản, với hy vọng mong manh là trong tương lai thế hệ
lãnh đạo cộng sản kế tiếp sẽ bớt sát máu hơn thế hệ của Lê Duẫn, Trường
Chinh, Lê Đức Thọ.
Từ đó đến nay đã 35 năm. Những thế hệ lãnh đạo cộng sản
già nua lần lượt ra đi, nhường chỗ lại cho thế hệ cộng sản đàn em lên
thay, nhưng sự ngu dốt thì vẫn ở lại. Đến thế hệ của Nông Đức Mạnh,
Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, thì nhờ đã vứt bỏ đi nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa trong chính sách đổi mới nhập nhằng, mà người dân có đời
sống vật chất thoải mái hơn; nhưng trong mọi lãnh vực khác thì những thế
hệ lãnh đạo mới này đang ngày càng đưa Việt Nam gần đến hố thẳm giệt
vong hơn. Xã hội ngày càng suy đồi hơn, giáo dục ngày càng xuống dốc
hơn, phân cực giàu nghèo ngày càng lớn hơn, các món nợ nước ngoài ngày
càng chồng chất hơn... Việt Nam không những tụt hậu ngày càng xa so với
các nước trong vùng, mà nguy hiểm hơn, ngày càng lệ thuộc vào Trung
Quốc.
Nếu thời ông Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
công hàm thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc,
và chủ quyền đó chỉ có giá trị trên giấy tờ; thì sang thời Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh, tinh thần của công hàm đó đã trở thành hiện thực.
Không những thế, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam càng về sau này càng
"Hán hoá” Việt Nam một cách "đại trà” hơn, với nhịp độ nhanh chóng hơn
bằng nhiều hình thức. Bên cạnh sự Hán hoá bằng tư tưởng văn hoá do chính
các cơ quan văn hoá của nhà nước chủ động thực hiện, thì việc dâng đất,
nhượng biển đến việc cho người Trung Quốc ồ ạt sang chiếm cứ những vùng
đất trọng điểm của tổ quốc dưới hình thức như khai thác bô-xít, thuê
rừng, thuê đất tại những địa bàn chiến lược quan trọng, cũng được chính
giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam xướng xuất. Bất chấp những phản đối của
dân chúng, đặc biệt là của thành phần trí thức, những tiến trình Hán hoá
vừa kể chỉ tăng chứ không hề giảm.
Sau thế hệ Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, liệu rằng Việt
Nam sẽ khá hơn không? Trong lớp người lãnh đạo kế thừa của đảng cộng sản
Việt Nam hiện nay không phải là không có những người đỗ đạt từ các nước
tây phương trở về. Tuy nhiên, như một định luật: khi đã trở thành phần
tử của một tập đoàn tha hoá thì họ sẽ phải vận hành theo sự tha hoá đó,
nếu không muốn bị nghiền nát. Càng vận hành nhuần nhuyễn thì càng trở
thành phần tử quan trọng để leo lên vị trí lãnh đạo. Vì vậy, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh, v.v... rồi sẽ ra đi, nhưng cái căn cốt ngu dốt và
tha hoá của guồng máy vẫn nguyên vẹn; và để bảo vệ quyền lợi, ngôi vị,
những tiến trình "hội nhập với Trung Quốc” hiện nay sẽ được lớp lãnh đạo
kế thừa lưu manh hoá một cách tinh vi hơn. Cứ nhìn vào Nguyễn Chí Vịnh,
Lê Đức Minh, Lê Ngọc Anh,... là sẽ thấy được thế hệ lãnh đạo tương lai
của CSVN như thế nào. Đặc biệt là nhìn vào Đỗ Ngọc Bích, một người không
những thấm nhuần tư tưởng: "Việt Nam tự cổ chí kim luôn luôn là một
phần của Trung Quốc”, mà còn thấm nhuần cả phong cách lừa dối, một phong
cách nổi bật của giới cầm quyền Hà Nội, người ta sẽ thấy ngay một điển
hình của sự nghiệp "trăm năm trồng người” của đảng cộng sản Việt Nam cho
tiến trình Hán hoá nước Việt.
Những thực tế nêu trên cho thấy, nhân dân Việt Nam không
thể trông chờ vào sự "tự hoàn thiện” của guồng máy lãnh đạo đảng cộng
sản Việt Nam qua những thế hệ lãnh đạo mới. Không cần phải chờ 25 năm
trong dự án khai thác bauxite, hay 50 năm cho thuê rừng, để người Hoa có
đủ thời gian sinh sôi nảy nở và bám rễ thì những phần đất họ đang chiếm
đóng của Việt Nam mới thuộc về nước Tàu. Ngay bây giờ người quyền uy
như tướng Đồng Sĩ Nguyên mà cũng phải khó khăn lắm mới vào được tô giới
của họ. Ngay bây giờ, tàu Trung Quốc vào đánh cá ngang nhiên sát bờ biển
Việt Nam mà công an biển Việt Nam cũng chỉ dám "mời và hướng dẫn” họ ra
khơi. Ngay trong hiện tại ngư dân Việt Nam đi trong vùng biển Việt Nam
mà Trung Quốc muốn giết thì giết, muốn bắt thì bắt, muốn cướp thì cướp.
Ngay bây giờ người Việt Nam muốn viết hàng chữ "Hoàng Sa, Trường Sa là
của Việt Nam” cũng phải viết lén; viết công khai là bị tù tội... Việt
Nam hiện chưa mất nước, nhưng phải chăng thời kỳ bắc thuộc lần thứ năm
đã bắt đầu với những quan thái thú người Việt?