Trung Điền
Trong các chế độ độc tài cộng sản, bộ máy công
an không chỉ làm nhiệm vụ kiểm soát đời sống người dân mà còn ngăn chận
những nỗ lực đối kháng của người dân dưới mọi hình thức. Sự ngăn chận
này đã và đang bị thay đổi theo thời gian.
Trong thời kỳ toàn trị, tức là lúc đảng Cộng sản khống
chế toàn diện xã hội, bộ máy công an được sử dụng như bàn tay trấn áp
thô bạo để bảo vệ uy quyền tuyệt đối của chế độ độc tài, bất chấp những
phản đối từ thế giới bên ngoài. Tất cả những ai làm trái mệnh lệnh của
đảng và nhà nước đều bị công an thủ tiêu hay bắt giữ không cần xét xử.
Đất nước của chúng ta đã trải qua thời kỳ hung hiểm này rất dài từ năm
1945 ở một nửa miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước kéo dài đến giữa
thập niên 2000, trước khi Cộng sản Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO.
Mặc dù Cộng sản Việt Nam đã chịu một số áp lực quốc tế
khi mở cửa bang giao với Hoa Kỳ và buôn bán với phương Tây từ năm 1995
trở đi, nhưng bộ máy công an vẫn được coi là lực lượng đứng trên tất cả.
Các thủ đoạn của bộ máy công an sử dụng trong thời kỳ nói trên vẫn là
đàn áp tối đa những ai dám chống lại chế độ, kể cả việc răn đe và cô lập
kinh tế những người thân trong gia đình của họ. Chủ trương của bộ máy
công an không chỉ là tiêu diệt những người dám chống lại họ mà còn làm
khiếp sợ cả những người chung quanh. Do đó mà những người đối kháng
trong thời kỳ này hứng chịu rất nhiều nghiệt ngã, những lên tiếng can
thiệp của quốc tế không có nhiều tác dụng.
Từ năm 2000 trở đi, Cộng sản Việt Nam đã phải thay đổi
thái độ đối với thế giới khi ký thương ước với Hoa Kỳ và bắt đầu vận
động để được gia nhập WTO. Một trong những thay đổi này là Cộng sản Việt
Nam không thể nào tiếp tục khống chế xã hội như dưới thời toàn trị mà
phải cải tổ một số luật lệ và sinh hoạt xã hội theo tiêu chuẩn của xã
hội mở, đặc biệt là phải chấp nhận sự quan sát của quốc tế về mặt nhân
quyền. Cộng sản Việt Nam không muốn thi hành những đòi hỏi nói trên và
núp sau lý cớ rằng đó là những âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực
bên ngoài để trì hoãn những cải tổ cần thiết hay nếu có thay đổi cũng
chỉ là hình thức.
Từ năm 2005 cho đến nay, Cộng sản Việt Nam vẫn cố trì
hoãn những cải tổ về hành chánh, tòa án, tư pháp; thậm chí họ còn gia
tăng các kiểm soát mạng thông tin Internet, nhưng họ biết là không thể
tiếp tục trì hoãn sự thay đổi và kiểm soát xã hội theo ý muốn riêng khi
mà họ đang muốn đẩy mạnh sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và thu hút
đầu tư từ nước ngoài, với đích nhắm là đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp tiên tiến vào năm 2025. Người ta chưa biết là Cộng sản Việt Nam
có đạt được đích nhắm này hay không, nhưng ít ra nó buộc họ phải thay
đổi lề lối hành xử của bộ máy công an để có bộ mặt "văn minh” hơn trong
việc giao tiếp với xã hội bên ngoài và để người ngoại quốc đủ tin tưởng
mà bỏ tiền vào đầu tư tại Việt Nam.
Việc Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận những "đối thoại
nhân quyền” một cách định kỳ hàng năm với Na Uy, Thụy Điển, Hoa Kỳ hoặc
phải tham gia trả lời các chất vấn về nhân quyền hàng năm của Ủy ban
nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève, cho thấy là Cộng sản Việt Nam đang
bị quốc tế theo dõi và rất ngại mỗi khi bị các cơ quan nhân quyền lên
tiếng phản đối về một sự đàn áp nào đó xảy ra. Đương nhiên chúng ta biết
sự giới hạn của các phản đối quốc tế; nhưng ít ra là đã ngăn chận không
cho bộ máy công an có thể tự tung tự tác để trấn áp bất cứ ai như dưới
thời toàn trị.
Tuy nhiên, một nhân tố góp phần quan trọng trong việc
giảm thiểu các hành động trấn áp thô bạo của công an hiện nay chính là
phương pháp đấu tranh bất bạo động đã được bà con dân oan, công nhân,
các phong trào đấu tranh tôn giáo, các lực lượng dân chủ áp dụng tại
Việt Nam trong vài năm trở lại đây.
Đặc tính cốt lõi của phương pháp đấu tranh bất bạo
động là các hành động phản kháng công khai để quy tụ số đông, và chính
số đông này làm tê liệt nhiều loại trấn áp của công an. Khi công
khai những nỗ lực tranh đấu, nhiều người mới thấy đây là những hành động
vừa tầm tay của những người dân bình thường trong xã hội như họ. Và
cũng chính nhờ sự công khai mà nhiều người biết được hàng xóm của mình
cũng có mơ ước và uất ức như mình, nghĩa là giúp người ta nhìn thấy họ
có cùng mục tiêu. Khi mục tiêu giống nhau thì sự tham gia sẽ dễ dàng và
nhanh chóng hơn. Việc đấu tranh công khai trước mặt nhiều nhân chứng
cũng ngăn chận trước các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo, bức cung của chế
độ độc tài, vốn kiểm soát toàn bộ hệ thống báo đài. Rõ ràng không thể có
được số đông quần chúng nếu không đấu tranh công khai.
Ngược lại, khi số người tham gia đấu tranh ngày càng
đông thì các hình thức đấu tranh càng phải là những việc công khai. Khó
có thể kéo một số rất đông quần chúng đi làm một việc kín. Và nếu biết
khai dụng, số đông quần chúng không cần bạo động vẫn có khả năng làm tê
liệt hệ thống nhà tù, vô hiệu hóa hệ thống tuyên truyền, làm ruỗng nát
hệ thống hành chánh, v.v. của chế độ. Mỗi người dân chỉ cần đóng góp một
phần rất nhỏ trong tầm tay của mình và khi có nhiều người cùng làm như
vậy sẽ lôi kéo được số đông đủ lớn, ngày một gia tăng nhanh hơn nữa do
sự tin tưởng vào chính nghĩa chung. Biến cố hàng ngàn người dân đã tụ
tập trước ủy ban nhân dân tỉnh để phản đối vụ công an đánh chết người ở
Bắc Ging hôm cuối tháng 6 năm 2010 là một thí dụ điển hình.
Nói cách khác, một người đang đứng bên lề sẽ thấy mục
tiêu của họ phải đúng và cao đẹp lắm thì mới có nhiều người tham gia như
vậy và do đó tôi cũng phải tham gia. Sau hết, chính số đông quần chúng
đẩy giới cầm quyền độc tài vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tức là
nếu nhà cầm quyền từ chối giải quyết, họ sẽ phải đối diện với một làn
sóng chống đối đông đảo và càng gia tăng vì uất ức; ngược lại, nếu giới
cầm quyền chịu giải quyết thì họ không thể chỉ làm một vài trường hợp
riêng lẻ để lấy tiếng mà phải giải quyết cho toàn bộ số đông trước mặt;
và khi đã đạt được kết quả trong lãnh vực đó, quần chúng đấu tranh sẽ
đòi giải quyết tiếp các oan trái trong những lãnh vực khác. Và kết quả
sau cùng vẫn là một chế độ độc tài bị số đông quần chúng làm tê liệt.
Trở lại vấn nạn công an hiện nay. Bản chất của công an
trong một chế độ độc tài là dùng bạo lực trấn áp bất kể luật pháp, lý
lẽ, hay luân thường trong xã hội. Nếu người dân dùng bạo lực chống lại
bạo lực của công an chắc chắn người dân sẽ thua vì sự nghiêng lệch quá
lớn về vũ khí, phương tiện, và mức độ tàn nhẫn. Ngược lại kinh nghiệm
cho thấy, công an sẽ vô cùng bối rối khi đối diện với khối quần chúng
tay không, công khai đấu tranh cho những quyền pháp định của họ và không
coi công an là mục tiêu để tấn công. Loại hành động phản kháng cũng
được chọn kỹ lưỡng để không chọc tức công an, không tạo những "cá nhân
anh hùng” nhưng vừa đủ để giúp nhiều người vượt qua sợ hãi, ngang nhiên
tranh đấu công khai trước mặt công an. Dĩ nhiên, các phương tiện thu
hình, thu thanh, và mạng Internet được tận dụng để tung ngay những chứng
cớ "ai tấn công ai” trước thế giới. Người dân Việt Nam đang từng bước
thu thập kinh nghiệm theo hướng đấu tranh này:
- Hàng trăm dân oan tập trung ở Sài Gòn hay Hà Nội đã không còn sợ hãi
chạy trốn hay tức tối mắng chửi công an nhưng đã làm họ bối rối. Bà con
dân oan không xin xỏ nhưng nhìn thẳng vào mặt công an cho biết lý do
tại sao họ phải đòi giải quyết hoàn cảnh oan ức của mình. Bà con dân oan
cam đoan giữ trật tự và kêu gọi công an làm đúng chức năng của mình.
Những nỗ lực này đã giảm thiểu rất nhiều các cuộc đối đầu giữa công an
và bà con trong vòng 2 năm qua.
- Cũng vậy, hàng ngàn công nhân đã coi công an như lực lượng giúp giữ
trật tự cho cuộc đình công và tuyệt nhiên không nặng lời công kích.
Chính thái độ này tước đi lý cớ cho lực lượng công an được chủ công ty
triệu đến để đàn áp công nhân đình công. Các quan chức chế độ đành phải
dùng những thủ thuật khác chứ không còn dùng bàn tay bạo lực công an một
cách dễ dàng được nữa.
- Bà con giáo dân tại Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm tuy biết rất rõ các
thủ đoạn và bản chất "chỉ biết còn Đảng còn mình” của công an, nhưng
vẫn được hướng dẫn chỉ coi công an như lực lượng giữ an ninh. Giáo dân
không tấn công và không cung cấp lý cớ cho lực lượng công an xông vào
các buổi cầu nguyện, bất kể cả những hành động cố tình gây hấn của những
đầu gấu do công an thuê mướn.
Ở bình diện lớn hơn, lực lượng dân chủ đang cố gắng
truyền đạt sự khác biệt lớn giữa những quan chức trùm công an và những
cán bộ công an cấp thấp và trung. Đây là những sự thật mà chính từng
người công an trong ngành còn thấy rõ hơn dân chúng bên ngoài. Rõ ràng
kẻ hưởng lợi lớn nhất là các quan chức cao cấp nhưng cùng lúc người bị
dân oán trách, nhất là những cán bộ công an cấp thấp. Và rút từ kinh
nghiệm các chế độ độc tài đã sụp đổ, thành phần cao cấp luôn có phương
tiện để cao bay xa chạy, để lại các công an cấp thấp đối diện với nhân
dân. Vì vậy, đã đến lúc mọi người dân dùng các quan hệ thường ngày của
mình, để vạch ra những sự thật đó với từng gia đình có con em trong
ngành công an. Nếu họ biết tránh xa, làm ngơ, hoặc chỉ thi hành đại khái
những chỉ thị gian ác từ trên đưa xuống, họ sẽ không có gì phải quá lo
sợ về ngày thay đổi chế độ.
Trước áp suất quốc tế và các hình thái đấu tranh công
khai, bất bạo động của quần chúng trong những năm qua, người ta có thể
thấy một số thay đổi hình thức trấn áp từ phía công an CSVN:
1/ Theo dõi, đe dọa và tìm cách khuyến dụ để đối tượng không chống đối nữa.
2/ Bắt giữ và tìm cách khuyến dụ để đối tượng
nhận tội, xin khoan hồng. Sau đó đối tượng được miễn tố hay chỉ bị án
nhẹ mang tính hình thức. Đây là cách công an tước lột uy tín của các nhà
đấu tranh.
3/ Bắt giữ và nếu các đối tượng không nhận tội thì đưa họ ra tòa kết án nặng nề để răn đe người khác.
Ngoài 3 trường hợp tổng quát nói trên, công an còn áp
dụng một số biệt lệ tùy theo sự ảnh hưởng xã hội của từng nhóm quần
chúng tranh đấu hay tư thế của từng nhà đối kháng, nhưng điểm chung là
công an không muốn làm lớn chuyện khi bắt giữ ai vì rất ngại sự lên
tiếng của công luận. Ngoài ra, dưới thời toàn trị, thành phần công an
muốn chứng minh bàn tay bạo lực tuyệt đối của đảng nên không ngần ngại
sự thẳng tay trấn áp; ngày nay, uy quyền của đảng bị soi mòn, thành phần
công an phải lo thủ tương lai của chính họ và gia đình khi có thay đổi
nên họ thường nghiêng về xu hướng số 1 (khuyến dụ) hay số 2 (nhận tội và
xin khoan hồng) để mong vô hiệu hóa những phản kháng của người dân và
các nhà đối kháng là đủ.
Để tiến hành những biện pháp nói trên, công an rất gian
manh dùng những thủ đoạn bôi nhọ, và nhất là dùng yếu tố gia đình, thân
nhân của chính người bị bắt để đe dọa, tạo áp lực. Có những người vượt
qua những đe dọa này để không đầu hàng sự trấn áp, nhưng cũng có những
người vì không muốn người thân bị hại nên đã bị rơi vào sự khuyến dụ của
công an. Đây là thủ đoạn ép cung của Cộng sản Việt Nam trong quá trình
điều tra, nhằm biến nạn nhân thành kẻ đầu hàng đối với chế độ. Chúng ta
nên nhớ rằng sự tuyên bố đầu hàng của một nạn nhân nằm trong vòng tay
khống chế của công an không có giá trị pháp lý kể cả khi họ ra khỏi nhà
tù trở về sống với gia đình.
Do đó để có số đông quần chúng tham gia, chúng ta không
chỉ khuyến khích nhau vượt qua sự sợ hãi mà còn phải cảm thông, không
chờ đợi những người đấu tranh phải là những "anh hùng” trong vòng kiềm
tỏa của công an. Với suy nghĩ thực tiễn như vậy, chúng ta mới dấy lên
được phong trào dân chủ rộng rãi trong quần chúng và nhất là biến những
thủ đoạn khuyến dụ của công an trong nhà tù thành những động cơ thúc đẩy
các nạn nhân đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa khi ra khỏi tù.
Tóm lại, tập thể công an là bộ máy bảo vệ chế độ nhưng
không phải cá nhân công an nào cũng phục vụ hết lòng cho guồng máy độc
tài. Bên cạnh đó, quần chúng thường ngày vẫn sợ hãi bạo lực nhưng nếu áp
dụng uyển chuyển phương thức đấu tranh bất bạo động, chính quần chúng
đó sẽ vượt qua sợ hãi và làm tê liệt bàn tay bạo hành.
Trung Điền
Ngày 7/10/2010