Gửi vào ngày Thứ Sáu, 18 Tháng 9, 2009.
Bài này đang được chuyền tay nhau giữa nhiều
người trong nước. Vì bài có ghi là "Góp ý với Đại Hội XI ĐCSVN”, không
có tính tư riêng, viet-studies xin mạn phép tác giả (không biết là ai) đăng lại đây để mọi người được đọc.
GÓP Ý VỚI ĐẠI HỘI XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đổi mới Đảng, tránh nguy cơ sụp đổ!
Thiện Ý
I. TỔ QUỐC TRƯỚC HAI HIỂM HỌA
Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: Giặc ngoại xâm và giặc nội
xâm. Mọi người Việt Nam yêu nước có trách nhiệm tìm đường đưa dân tộc thoát khỏi
hai hiểm họa đó.
Chúng ta đã từng gọi một cách
chính xác “bọn bành trướng bá quyền Bắc kinh là kẻ thù trực tiếp nguy
hiểm” . Những hành động lấn lướt khiêu khích gần đây ở Biển Đông, chứng tỏ bản
chất của chúng không hề thay đổi. Ngày 2-7-2009 trả lời ký giả Mạc Lâm,
nhà ngoại giao Dương Danh Dy từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc nhận
định, Trung Quốc là anh láng giềng to, khỏe, tham, lại xấu tính và
“Sau thời điểm 2010 trở đi chưa biết họ làm cái gì đâu. Họ kinh khủng
lắm...”
Hai mươi năm qua, Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã hết sức cố gắng xây dựng với Bắc Kinh mối quan hệ “đồng chí” kèm
theo “16 chữ vàng” (do Giang Trạch Dân đặt ra, Lê Khả Phiêu tán thành đưa vào
Tuyên Bố Chung tháng 2-1999): “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai”. Mấy năm sau lại bổ sung “tinh thần 4 tốt”: “Láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”). Để tỏ lòng trung thành với
mối quan hệ đó, Nhà nước Việt Nam đã bắt bớ công dân của mình xuống đường biểu
tình với khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam”. Đó là thủ đoạn ngoại
giao khôn khéo hay chỉ là sự đớn hèn? Tình trạng này còn kéo dài bao lâu?
Rồi bằng cách nào để có thể thực hiện được di chúc thiêng liêng của Đức Trần
Nhân Tôn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ
khác!”? Không làm được điều đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam không thể thoát khỏi trách nhiệm trước lịch sử là
đã để đất đai thấm máu cha ông lọt vào tay giặc.
Giặc nội xâm là cách nói của chủ
tịch Hồ Chí Minh để chỉ thói tham ô, lãng phí, quan liêu. Từ năm 1948 khi ông
viết những điều này trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, 60 năm đã trôi
qua, tham nhũng hồi ấy chỉ như ruồi muỗi, ngày nay đã trở thành hùm beo,
mặc dù ở mọi cấp, mọi ngành đều có cơ quan chống tham nhũng! Cứ xem chế độ
tiền lương, Chủ tịch nước cũng chưa đạt mức phải đóng thuế thu nhập, thế mà
cán bộ nào cũng nhà cao cửa rộng tiêu xài hoang phí thì có thể đoán biết tham
nhũng là bệnh của cả hệ thống! Nguyên nhân nào đẻ ra tình trạng đó? Biện pháp
nào để ngăn chặn đây?
Có thể bạn cho rằng cần phải thêm
hiểm họa về môi trường, nhưng thực tế cho thấy vụ Vê Đan và nhiều vụ khác đều
là con đẻ của quan liêu tham nhũng.
Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử 80
năm của Đảng Cộng Sản Việt Nam để đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của Đảng và tìm
lại sức sống cho Đảng, hòng cứu nguy cho dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa nói
trên.
II. BA THẾ MẠNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Mọi đảng viên
Cộng Sản kể cả chủ tịch Hồ Chí Minh đều bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước mà đến
với chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ nhiều người cho đó là chọn nhầm đường, lạc
đường, hoặc nặng lời hơn, có người lên án Đảng Cộng Sản lợi dụng lòng yêu
nước của nhân dân, rằng nhân dân theo Việt Minh, theo Mặt trận dân tộc
giải phóng, chớ không phải theo cộng sản. Có người cho rằng con đường
cộng sản không phải là một tất yếu lịch sử để giải phóng dân tộc,
nếu...
Tiếc rằng lịch sử không cho
chúng ta chữ “nếu”! Tôi thích câu nói của Milovan Djilas: “20 tuổi mà không
theo cộng sản là không có trái tim, đến 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là
không có cái đầu”! Và cũng ông ấy đã nói: “Không thể nói rằng họ
(người cộng sản) đã cố tình lừa dối, rồi sau đó không chịu thực
hiện. Sự thật là họ không thể thực hiện được những điều mà họ đã
nhiệt liệt tin tưởng”. Dù gì thì lịch sử cũng phải ghi nhận việc Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng 8 và đưa cuộc kháng
chiến chống Pháp đến “Điện Biên chấn động địa cầu”. Những người “quốc gia” nên
nhận sự kém cỏi của mình là không làm được gì có sức thuyết phục dân tộc.
Chế độ Việt Nam Cộng hòa được dựng lên nhờ vào bàn tay của người Mỹ, mà người
Mỹ thì đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho người Pháp. Do đó Việt Nam
Cộng hòa không tìm được niềm tin từ nhân dân. Rồi để cứu Việt Nam
Cộng hòa và danh dự nước Mỹ, hằng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học đã
dội lên đầu nhân dân Việt Nam!
Tất cả điều ấy làm cho số đông
người Việt Nam tin theo Đảng Cộng Sản, từng thật lòng khi nói “ơn Bác, ơn
Đảng”, thật lòng gọi hai tiếng “Đảng ta”! Trong bối cảnh đó, chủ tịch Hồ
Chí Minh khi răn dạy đảng viên đã nói một câu mà ngày nay nghe cứ tưởng
như chuyện đùa “Đừng tưởng rằng cứ dán lên ngực hai chữ cộng sản là
sẽ được nhân dân yêu mến, nếu như không rèn luyện đạo đức... ”
Tuy nhiên,vào đầu những năm 50 trở
đi đã nãy mầm tai họa:
- Nhầm đồng minh giai đoạn là đồng minh chiến lược, trong
khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.
- Đường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản.
Hậu quả là niềm tin của nhân dân
đối với Đảng nhiều lần bị hẫng hụt. Dù vậy chưa phải như đánh giá của ông Đào
Hiếu: “Trừ một số tư sản mại bản, tư sản đỏ,... thì đại đa số nhân dân Việt Nam
đều căm ghét chế độ hiện nay”. Nếu nhận định đó là đúng thì sự sụp đổ của chế
độ đã không thể cưỡng được! Đó có thể là tình trạng của những năm 80, khi
khủng hoảng kinh tế, xã hội chưa có lối ra.
2. Chính Đổi Mới
đã giúp Đảng Cộng Sản Việt Nam gượng dậy, mạnh lên, lấy lại niềm tin của
nhân dân. Mấy bài nói của ông Lê Hồng Hà về tình hình đất nước 20 năm
qua, tôi rất đồng tình ở nhiều nhận định sâu sắc và những ý kiến về phương
hướng sắp tới. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như ông khi cho rằng: “20 năm qua,
cuộc đấu tranh giữa một bên là Đảng Cộng Sản và một bên là toàn dân Việt Nam,
kết quả là dân thắng Đảng trên hai mặt trận kinh tế và tư tưởng, nhưng dân
chưa thắng về chính trị, vì hệ thống chuyên chính vô sản vẫn còn
nguyên.” Tôi nghĩ, nói như vậy là phủ nhận sự chuyển biến bên
trong của Đảng Cộng Sản. Do đặc điểm hình thành và phát triển, Đảng
Cộng Sản Việt Nam luôn luôn đề cao hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội. Ý thức hệ cộng sản không được đặt cao tuyệt đối mà có thể du
di. Cách xử lý của chủ tịch Hồ Chí Minh trước và sau Cách mạng
tháng 8 là như thế. Cách xử lý của những người lãnh đạo Đảng Cộng
Sản trước cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 80 cũng là như
thế. Nếu không có những đảng viên như Kim Ngọc, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn
Kiệt, Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, có lẽ phải kể cả ông Trường
Chinh nữa, thì không có Đổi Mới. Chúng ta có thể lấy Bắc Triều Tiên,
Cuba làm đối chứng cho nhận định này! Đảng Cộng Sản Việt Nam cho
rằng Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, điều ấy không
ngoa. Nhưng dùng hai chữ Đổi Mới là thủ đoạn đánh tráo khái niệm,
thực ra phải nói là “trở lại như cũ trên con đường văn minh của nhân
loại” .
Chính vì chỉ “đổi mới” chứ
không chịu “trở lại như cũ” cho nên những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản
luôn luôn ngập ngừng, cứ hai bước tiến một bước lùi, chỉ vì sợ bị
mất độc quyền lãnh đạo. Ở đây xẩy ra cuộc đấu tranh giữa những
người muốn Đổi Mới toàn diện mạnh mẽ như Trần Xuân Bách với lực lượng
bảo thủ muốn ghìm lại, nhất là ở lĩnh vực chính trị. Dù gì thì
Đổi Mới đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Hệ thống
chuyên chính vô sản cũng mềm đi chứ không cứng rắn được như trước. Ví
dụ, trong vụ giới trí thức kiến nghị dừng dự án Bauxite Tây Nguyên,
ban đầu đã có ý đe dọa, gán cho tội chịu ảnh hưởng của bọn phản
động, nhưng rồi đã phải lùi lại. Một trang Web Bauxite Việt Nam
có danh sách gần 3000 người ký tên trong 8 đợt kiến nghị, có hằng trăm ý kiến
phản biện sắc bén, được hằng triệu người truy cập, quả là một hiện tượng chưa
từng có.
Tự do kinh tế đem lại nhiều công
ăn việc làm, cuộc sống vật chất của người dân dễ chịu hơn, bộ mặt đất nước cũng
thay đổi. Các biện pháp quản lý xã hội có mềm hơn. Cán bộ, công chức nói chung
gắn bó với Nhà nước. Doanh nhân được ưu đãi, chăm sóc. Do đó số đông tầng lớp
trung lưu và trí thức chưa quá bức xúc đòi hỏi tự do dân chủ. Công nhân đình công,
nông dân biểu tình đều vì quyền lợi vật chất cụ thể chứ chưa phải đòi được tự
do lập Hội, lập Công đoàn. Có tài liệu cho rằng trung bình mỗi người dân Việt
Nam có chân trong 2,33 tổ chức Hội, Đoàn, làm cho họ cứ tưởng rằng mình đã được
nhiều tổ chức của một xã hội dân sự bảo vệ lợi ích khi cần thiết.
3. Đảng Cộng Sản
Việt Nam nắm chắc lực lượng quân đội và công an bằng một hệ thống tổ
chức chặt chẽ từ trên xuống tận cơ sở và giáo dục họ đồng nhất Đảng
với Tổ quốc. Nhận định của ông Lê Hồng Hà rất đúng khi cho rằng
không thể dùng bạo lực để lật đổ chế độ này.
Tuy vậy, ba thế mạnh kể trên đang
bị “ba điểm yếu” bào mòn từng ngày. Nếu không kịp thời có giải
pháp sáng suốt và mạnh mẽ để Đổi mới Đảng thì về lâu dài nguy cơ sụp đổ
khó tránh khỏi..
III. BA ĐIỂM YẾU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
1. Do “ngu
trung” với ý thức hệ, Đảng Cộng Sản Việt Nam không rút được bài học nhầm lẫn
chọn bạn đồng minh, đã tiếp tục phạm sai lầm lớn hơn ở cuộc gặp Thành Đô năm
1990, cầu hòa với Bắc Kinh trong thế yếu. Từ đó, hai kẻ thù mang mặt nạ “đồng
chí”, giả vờ kết giao trên “16 chữ vàng”! (Do quá phẫn nộ trước hành động
ngang ngược gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nhân dân đã nhại lại thành 16
chữ đen là “Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, cướp biển lâu dài, thôn
tính tương lai” ). Nhầm lẫn trước năm 1954, còn có thể thông cảm, nhưng
từ khi Bắc Kinh liên tục gây chiến tranh biên giới với tất cả quốc gia
láng giềng Ấn Độ, Liên Xô, Việt Nam mà vẫn còn cho rằng “cùng là xã
hội chủ nghĩa với nhau vẫn tốt hơn” thì thật là mù quáng! Năm
1974 chúng đã chiếm Hoàng Sa, năm 1984 chúng bất ngờ tập kích Lão Sơn giết
chết 3700 chiến sĩ Việt Nam, năm 1988 chúng chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường
Sa, giết chết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Chúng liên tục lấn tới, lập
cơ quan hành chính Tam Sa gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, liên tiếp
bắn giết, cướp thuyền, bắt ngư dân chúng ta đánh cá trên vùng biển
của mình! Những ai có trái tim yêu nước đều cảm nhận chúng chỉ chực chờ thời
cơ để đánh úp chiếm đoạt cả Trường Sa của chúng ta!
Từ tháng 3 năm 2009 đến nay,
cả nước sôi sục một phong trào đòi hủy bỏ dự án Bauxite mở đường
cho hùm dữ vào nhà. Các bậc đại công thần của chế độ, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, các Thiếu tướng Nguyễn
Trọng Vĩnh, Lê Văn Cương và hằng ngàn trí thức đã lên tiếng cảnh báo
những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước phải thức tỉnh. Kỹ sư
Doãn Mạnh Dũng, trong Bài học bất ngờ từ Trung Quốc đã viết:
“.. Năm 2008, tập đoàn Tân Tạo đưa Trung Quốc vào
quần đảo Nam Du xây dựng cảng than. Cũng năm 2008, Đài Loan thành công
với dự án xây dựng khu luyện thép bên vịnh Sơn Dương. Cuối năm 2008,
việc xây dựng nhà máy luyện nhôm Tân Rai, Nhân Cơ giúp Trung Quốc gài
quả bom bùn độc trên thượng nguồn sông Đồng Nai. Nếu một ngày nào đó
thực hiện kịch bản chiến tranh bất ngờ như năm 1979, họ sẽ nổ quả bom
bùn đã gài sẵn ở Tân Rai làm các tỉnh miền Đông và thành phố Hồ
Chí Minh chết khát. Họ chiếm Sơn Dương - Hà Tỉnh chặn cả đường biển
lẫn đường bộ từ Nam ra Bắc. Họ chiếm quần đảo Nam Du cắt đường biển
quốc tế đến Việt Nam. Một tình huống vô cùng nguy khốn đang hiện ra
trước mắt ta đó!”
Báo chí và người phát ngôn Việt
Nam không dám nêu tên tàu Trung Quốc mà gọi là “tàu lạ”! Trong khi đó, báo mạng
Hoàn Cầu thuộc Tân hoa xã bình luận rằng Trung Quốc nên giải
quyết tranh chấp biển đảo bằng biện pháp quân sự! Vậy mà Nhà nước Việt Nam vẫn
sợ mất lòng Trung Quốc, không dám đưa vụ bắt ngư dân của mình ra Hội Đồng Bảo
an LHQ! Dư luận trong và ngoài nước đều chê trách những người lãnh đạo Việt Nam
quá ngờ nghệch đã tự chui vào thế kẹt rồi đâm ra hèn nhát trước sự ép của Bắc
Kinh. Ông Nguyễn Hưng Quốc có bài viết tựa đề “Tại sao bổng dưng họ lại hèn như
vậy?” Ông Quốc nhắc lại nhiều hành xử anh hùng của người cộng sản Việt
Nam trước đây, nhưng không lý giải câu hỏi mới đặt ra.
Ở những cuộc chiến tranh cứu
nước trước đây, chúng ta luôn luôn có đồng minh thân thiết và được
nhiều quốc gia khác ủng hộ. Trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm
lược biên giới phía Bắc 1979, chúng ta còn có đồng minh Liên Xô. Trái lại trong
cuộc đối đầu với bọn bành trướng Bắc Kinh hiện nay, Việt Nam hoàn toàn
không có đồng minh chiến lược! Tiến sĩ Storey chủ biên tạp chí Đông Nam Á Đương
đại cho rằng: “Vấn đề Biển Đông là chủ đề nan giải” (ý nói đối với Việt
Nam) và nhận định: “Các nhà lãnh đạo Ba Đình không thể dựa vào một quốc gia nào
khác ngoài bản thân mình trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Không thể
dựa vào Mỹ, không thể dựa vào Nga và càng không thể dựa vào khối ASEAN”. Tại
sao ông nhận định như vậy? Bởi vì chúng ta đã tự xếp mình là đồng minh
thân thiết nhất của Trung Quốc. Khi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp Lý Nguyên
Triều, Trưởng ban tổ chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cám ơn họ đào tạo cán bộ
cho Việt Nam thì cơ quan an ninh Việt Nam bắt luật sư Lê Công Định. Khi Thượng
nghị sĩ Mỹ Jim Webb đến Hà Nội thì Đài truyền hình Việt Nam phát lời thú tội
của bốn nhà hoạt động dân chủ. Trong đó lời khai bổ sung của Lê Công Định là có
gặp nhiều quan chức Mỹ, đại sứ Mỹ cho rằng tổ chức tư pháp cần tách khỏi sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhiều tờ báo và đài truyền hình bình luận
rằng những người hoạt động dân chủ bị bắt đều có liên hệ với các thế lực thù
địch chống phá Việt Nam. Các động thái kể trên đã cho thế giới hiểu rằng Đảng
Cộng Sản Việt Nam đang đứng về phía nào trên bàn cờ khu vực và toàn cầu!
Ông Lê Tuấn Huy trong bài Bài
ngửa ở Biển Đông và bài bản về tư duy, đã nhận xét rất đúng rằng: “Trong
tương quan biển Đông đã bị đặt vào thế phải tranh chấp, Việt Nam lại không có
đồng minh cơ hữu lẫn đồng minh thể chế, khi mà đồng minh lớn nhất về chính trị
lẫn văn hóa chính là chủ thể muốn tước đoạt biển đảo. Việt Nam cũng hầu như
không có được sự hậu thuẫn cuả công luận thế giới trong vấn đề này và đó cũng
là một phần hậu quả từ việc thiếu vắng tương tác đồng minh” . Ông nhận định:
“Chần chừ, với Việt Nam lúc này đồng nghĩa với việc tiếp tục đẩy mình vào cảnh
thân cô thế cô!” .
Tổ quốc cấp thiết đòi hỏi Đảng
Cộng Sản Việt Nam phải chọn giữa 2 con đường: Tìm đồng minh cho dân tộc hay
là giữ “đồng chí” cho Đảng? Thật ra thì bọn bành trướng Bắc Kinh đâu có xem
Đảng Cộng Sản Việt Nam là đồng chí. Cách hành xử trịch thượng của họ đối với ta
như là minh chủ đối với chư hầu! Nếu không mau chóng trả lời dứt khoát
câu hỏi trên, Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ càng ngày càng bị mất niềm tin của
dân tộc và càng lâm vào thế kẹt.
2. Hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ thích hợp cho một xã hội có nền kinh tế công hữu
và tập thể, phân phối bao cấp từ hạt gạo đến bó rau và đóng cửa với thế giới
bên ngoài. Đổi mới kinh tế đã làm cho hệ thống chính trị không còn tương hợp,
trở thành chiếc áo cũ rách. Các giá trị hôm qua đặt vào thực tế hôm nay hóa ra
khôi hài.
Suốt 20 năm đổi mới, các kỳ Đại
hội Đảng cứ khất lần khất lữa việc định nghĩa “Cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” có nội dung gì? Và “Vai trò vị trí của giai cấp công
nhân, giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng” có gì thay đổi? Nếu chỉ lấy câu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không có gì khác
các quốc gia dân chủ đã làm, nhưng so ra họ còn làm tốt hơn mình! Đến khóa 10
này, Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam thấy không thể kéo dài mãi đã tìm cách
giải đáp ở Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 từ ngày 14 đến 22
tháng 1 năm 2008 như sau:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu
sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội”. (Tài liệu học tập
các nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa 10, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
năm 2008, trang 33).
Các nhà lý luận của Đảng quên rằng:
“Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội ra đời và bắt
đầu phát sinh tác dụng cùng với việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa; phạm vi hoạt động của nó được mở rộng theo đà củng cố và phát triển
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tư liệu sản xuất trở thành sở hữu công
cộng làm cho nền sản xuất không phải để phục vụ cho việc phát tài và làm giàu
của cá nhân hay một giai cấp... ” (Từ điển kinh tế, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội
1976, trang 455).
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân phát triển,
xung khắc với quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội như nước với lửa,
làm sao chịu được sự chi phối của nó?
Giai cấp công nhân đang nơm nớp lo
bị mất việc làm. Nghe nói mình có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng
Cộng Sản Việt Nam, họ bảo nhau: “Mấy ông này hay thiệt, vừa đại diện cho công
nhân lại vừa là tư bản đỏ!”. Hơn 2500 cuộc đình công của công nhân không có sự
chỉ đạo của tổ chức công đoàn do Đảng lãnh đạo, đã nói lên niềm tin của họ đang
đặt vào đâu!
Nói về chính sách của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx, János Kornai người Hungary cho
rằng: “Đảng Cộng Sản Trung Quốc trình bày ý thức hệ giả mạo khi dẫn chiếu đến
chủ nghĩa Marx. Cái hệ thống mà Đảng Cộng Sản ngự trị về cơ bản mang tính tư
bản chủ nghĩa, vì sở hữu tư nhân đã trở thành hình thức sở hữu áp đảo, và bởi
vì cơ chế điều phối chính là cơ chế thị trường”. Nhận định đó hoàn toàn đúng
đối với đường lối kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Do không chịu công nhận
Đổi Mới là vứt bỏ những nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội và do tiếp
tục duy trì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin, đã làm cho
xã hội đầy dẫy những hiện tượng thực hư lẫn lộn, nói một đằng, hiểu một nẻo,
đạo đức xuống cấp!
Nói “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”, người dân thắc mắc: “Trong lịch sử chưa có ai làm chủ mà
không được lãnh đạo, lại còn bị người khác lãnh đạo!”.
Nói “thông qua dân chủ bầu cử Quốc
hội”, người dân bảo: “Lâu nay vẫn là Đảng cử, Dân bầu”!
Nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất”, người dân nói: “Quốc hội bao giờ cũng họp sau khi Đảng đã
họp và đề ra nghị quyết chỉ đạo cho Quốc hội phải làm gì. Vừa qua Bộ chính trị
quyết định đại dự án Bauxite đâu có cần thông qua Quốc hội”!
Nói đảng viên cán bộ là đày tớ của
nhân dân, mấy ông hai lúa cười: “Cả đời mình làm chủ mệt mỏi quá rồi, cầu mong
mấy đứa nhỏ sau này có đứa được làm đày tớ cho cả dòng họ được nhờ”!
Nói “Sống và làm việc theo pháp
luật”, “Mọi người bình đẳng trước pháp luật”, người dân nói “Pháp chế xã hội
chủ nghĩa, tư pháp do Đảng lãnh đạo. Người có chức có quyền mới tham nhũng, mà
có chức có quyền thì phải là đảng viên, vậy tư pháp làm sao dám xét xử tham
nhũng? Hãy coi Tòa án Hà Nội, rồi Tòa án tối cao cứ như gà mắc tóc trước vụ
luật sư Cù Huy Hà Vũ khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì biết tư pháp Việt
Nam được độc lập cỡ nào!
Nói chúng ta đã thực hiện tốt
quyền tự do báo chí, người dân hỏi “Không nghe ông Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Thông
tin Truyền thông bảo: ‘Phải đi đúng lề phải mới có tự do báo chí đó sao?’”.
Mới đây ông Nguyễn Mạnh Cầm cho
rằng Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam được Đảng giao cho nhiệm vụ vận động nhân dân
phản biện các chính sách của Đảng, nhưng suốt mấy năm, Mặt Trận vẫn chưa làm
tốt. Xin hỏi, có cách nào để làm tốt được đây, khi mà phản biện chỉ được phép
nói trong cái “vòng kim cô” của nghị quyết Đảng? Ai chẳng sợ lỡ miệng ra ngoài
vòng sẽ bị thiệt thân? Các ông Nguyễn Mạnh Tường luật sư Ủy viên Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Kim Ngọc Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, Trần Xuân Bách Ủy viên
Bộ chính trị, là những nhà phản biện dũng cảm đã bị trừng phạt như thế nào ai
chẳng biết!
Mới đây, Viện Nghiên cứu Phát
triển IDS do giáo sư Hoàng Tụy làm Chủ tịch Hội đồng, Tiến sĩ Nguyễn Quang A
làm Viện trưởng, đã phải tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết định 97 của Thủ
tướng Chính phủ hạn chế quyền được nghiên cứu và phản biện.
Các giá trị tự do, dân chủ,
nhân quyền của nhân loại tiến bộ khi vào Việt Nam đều phải co lại cho vừa
cái khung xã hội chủ nghĩa. Cách hiểu, cách làm của Việt Nam trái
với các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã
cam kết thực hiện. Năm nào, Việt Nam cũng bị lên án vi phạm tự
do dân chủ, nhân quyền và bị xếp hạng vào cuối bảng của các nước trên
thế giới. Phản ứng của Nhà nước Việt Nam luôn luôn là “Nhận thông tin sai
lạc với thực tế Việt Nam”, hoặc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam”, nặng nề
hơn nữa là “âm mưu của các thế lực thù địch hòng chống phá Việt Nam”.
Chúng ta chấp nhận hội nhập với cộng đồng nhân loại, làm bạn với tất
cả các nước, nhưng lại không đồng ý với người ta về những giá trị phổ biến
của nền văn minh nhân loại là: xã hội công dân, sở hữu tư nhân, nhà
nước pháp quyền và chế độ dân chủ đại nghị. Chủ nghĩa xã hội thế
giới đã thất bại vì phủ định những giá trị phổ biến đó, cố tìm
những giá trị khác (Xã hội toàn trị, Công hữu, Kế hoạch hóa quan liêu bao
cấp, Chuyên chính vô sản, Dân chủ tập trung xã hội chủ nghĩa) hòng thay thế,
rồi lâm vào ngõ cụt và bị sụp đổ!
Chính hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa theo mô hình Stalin đã làm suy yếu các khả năng chống tham nhũng,
hiểm họa nội xâm của đất nước.
3. Nhiều người
già ở Sài Gòn cho rằng tham nhũng hiện nay đã vượt xa chế độ Sài
Gòn cũ. Có thể bào chữa rằng tham nhũng là vấn đề toàn cầu chứ
có riêng gì mình! Vâng, nhưng tham nhũng ở các quốc gia dân chủ có
nhiều thứ thuốc trị mà ta không có! Khi báo chí đưa tin Hoa Kỳ vừa
bắt 44 người tham nhũng thì ông hàng xóm nhà tôi bảo: “Nếu nước ta có
cơ quan tư pháp độc lập như họ thì chỉ riêng quận mình thôi số tên tham
nhũng bị bắt cũng vượt xa con số của cả nước Mỹ!”.
Có lẽ trên thế giới không nước nào
có nhiều cơ quan có chức năng chống tham nhũng bằng nước ta. Đảng có Ủy ban
kiểm tra, Nhà nước có Tổng thanh tra, các Bộ, các ngành, các đoàn thể, ở từng
cấp đều có tổ chức thanh tra, kiểm tra. Có rất nhiều nghị quyết chỉ đạo chống
tham nhũng. Một ủy viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng làm trưởng ban chống tham
nhũng Trung ương. Các Đảng ủy được nhắc nhở phải coi chống tham nhũng là trách
nhiệm lớn. Thế nhưng, tham nhũng đã xảy ra ở các Đảng bộ đạt tiêu chuẩn “4
tốt”, danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh” như: Văn phòng Chính phủ, Đảng
ủy Bộ Giao thông Vận tải, Đảng ủy PM18, Đảng ủy dự án Đại lộ Đông-Tây... Vì sao
tham nhũng ở Việt Nam “kháng thuốc” ghê gớm vậy?
Có 3 nguyên nhân:
(a) Ở các quốc gia dân chủ họ có
nền Tư pháp độc lập, có thể buộc tội cả Tổng thống, còn pháp quyền
xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là “vừa đá bóng vừa thổi còi”! Tay
này sao nở chặt tay kia!
Trả lời sao đây khi bao nhiêu
vụ án lớn không nhúc nhích:
- Vụ PMU 18 còn đó mà các nhà
báo viết về nó đã phải đi tù.
- Vụ PCI dù người Nhật đã khai
hối lộ cho Huỳnh Ngọc Sĩ, nhưng sau nửa năm, Sĩ chỉ bị khởi tố về
tội cho thuê nhà! Dư luận tin rằng Sĩ không thể nuốt trôi khối đô la
khổng lồ nếu không chia cho các vị thượng cấp có liên quan trách nhiệm đối
với công trình này!
- Năm 2006, cảnh sát Đức tìm
thấy Siemens chuyển hơn 5 tỷ đồng vào tài khoản ở Singapore của một
quan chức Việt Nam. Đến nay cảnh sát Việt Nam chưa động đậy.
- Năm 2008, một Việt kiều bị
truy tố “hối lộ 150 nghìn đô la để bán được thiết bị cho một dự án
ở Vũng Tàu” .Đến nay phía Việt Nam chưa có ý kiến gì.
- vv...
(b) Ở nước dân chủ có hệ thống báo
chí được gọi là “quyền lực thứ tư”. Báo chí “lề phải” của chúng ta luôn luôn
phải chờ được phép mới dám đưa tin. Trước đây các phóng viên viết bài chống
tham nhũng cứ chờ cơ quan điều tra của Bộ Công an cung cấp tài liệu. Từ khi 2
phóng viên của báo Tuổi trẻ và báo Thanh Niên dùng tài liệu của công an để viết
bài vẫn bị xử tù thì những cây bút chống tham nhũng của báo chí Việt Nam càng
co lại giữ mình.
(c) Các quốc gia dân chủ đều có
các Đảng đối lập luôn luôn săm soi mọi hành vi sai trái của Đảng cầm
quyền. Do đó các đảng cầm quyền phải có nhiều biện pháp quản lý đảng viên giúp
họ tránh các cạm bẫy. Còn ở nước ta, Đảng một mình một chợ, đảng viên
chẳng cần giữ ý, không sợ bất cứ ai!
Tại Hội nghị Trung ương 3, tháng 7
năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã có nhận định rất đúng rằng: “Tham nhũng
là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Từ đó đến nay,
ba năm đã trôi qua, tham nhũng không hề nao núng bởi nhận xét của ông. Vậy thì
liệu rằng sẽ có lúc chính chế độ phải nao núng bởi tham nhũng?
IV. NÊU 4 CÂU HỎI, TRƯỚC KHI TRÌNH GIẢI PHÁP
1. Ông Lý Quang
Diệu cho rằng năm 1975, Sài Gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng cốc, nhưng
20 năm sau Sài Gòn tụt hậu so với Băng cốc 20 năm. Vì sao? Có phải chỉ vì Băng
cốc có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công thương nghiệp tư bản,
trong khi đó Sài Gòn ra sức cải tạo công thương nghiệp tư bản? Nhìn rộng ra tại
sao tất cả các nước theo chủ nghĩa xã hội đều nghèo đói so với các nước phát
triển tư bản? Nhiều nhà lý luận Marx-Lê sang các nước tư bản phát triển đều
thừa nhận rằng ở các nước này “có nhiều xã hội chủ nghĩa” hơn Liên Xô, Đông Âu!
Cứ xem 2 quốc gia bị chia cắt là Đức và Triều Tiên, bên theo chủ nghĩa xã hội
thì nghèo đói, bên phát triển tư bản chủ nghĩa thì dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, văn minh. Nước ta từ khi Đổi mới, tức là từ bỏ những nguyên lý
kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tự do kinh tế thì sức sản xuất
được giải phóng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Như vậy làm sao có thể nói đường
lối kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt? Lê-nin từng cho rằng trong cuộc cạnh
tranh “ai thắng ai ”, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào có năng suất lao động cao
hơn. Nếu chủ nghĩa xã hội có năng suất cao hơn thì đâu đã bị “hạ gục” (chữ dùng
của Tổng thống Obama)?
2. Ngày nay,
toàn thế giới đều biết, trước đây ở Liên Xô, chính quyền Xô Viết đã thủ tiêu hằng
vạn cán bộ cao cấp, hằng triệu dân lành, cấm phát hành nhiều tác phẩm tiến bộ
và đày ải các tác giả của nó, kể cả những người đoạt giải Nobel. Ở Trung Quốc,
đại cách mạng văn hóa vô sản đã giết hằng triệu người, trong đó có cả Chủ tịch
nước, nhiều ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng và các nhà văn hóa lớn. Ở
Campuchia, Đảng Cộng Sản (từng là đồng minh của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
thời chống Mỹ) đã gây ra họa diệt chủng chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Tất cả các Đảng Cộng Sản ở Đông Âu, Cuba, Bắc Triều Tiên đều có những trang sử
đen về nhân quyền. Có lẽ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam mềm hơn tất cả?
Nhưng dù vậy, chúng ta cũng đâu có thiếu những ngày tháng nhắc tới không khỏi
đau lòng: Cải cách ruộng đất, Chống Nhân Văn giai phẩm, Cải tạo
công thương nghiệp, Chỉnh đốn tổ chức, Cải tạo bọn xét lại chống Đảng...
Có phải vì ý thức hệ cộng sản lấy
đấu tranh giai cấp làm động lực tiến bộ, coi lập trường giai cấp, một khái niệm
rất mơ hồ, là nền móng của đạo đức, từ đó đã đẻ ra tình trạng tay phải chặt tay
trái, đồng chí giết nhau, lương giáo nghi kỵ, con tố cha, vợ tố chồng, độc
quyền tư tưởng, triệt tiêu tư duy độc lập, kiềm hãm khả năng sáng tạo của con
người?
3. Qua hơn 20 năm đổi
mới, một lớp doanh nhân (Đảng muốn gọi tránh, chứ đúng ra phải gọi đúng tên là
giai cấp tư sản) đã hình thành, trong đó có khá đông đảng viên cộng sản và con
em họ.
Dù cho rằng phải đổi mới nội dung
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng đổi mới thế nào cũng không thể vượt khỏi các
nguyên lý của nó. Trước đổi mới, chỉ cần diễn đạt khác với các nguyên lý giáo
điều chút xíu đã bị lên án là xét lại, chống Đảng, đã phải đi tù. Đó là tội của
các đồng chí Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang... Đổi mới
đến mức không còn các nguyên lý cũng tức là từ bỏ chủ nghĩa xã hội! Đường lối
kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu từ Đại hội 6 đến nay thực sự đã từ
bỏ hết các nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì C. Mác - Ph.
Ăng-ghen đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản
xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
Nhà xuất bản Sự thật, năm 1974, trang 70) và “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống
trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư
sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước” (Sách trên,
trang 78).
Vậy nếu không phải là từ bỏ vĩnh
viễn chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sách lược, cho phép giai cấp tư sản tồn tại
trong “giai đoạn quá độ” thì có nghĩa là rồi đây Đảng sẽ có chính sách “từng
bước một đoạt lấy” như đã từng làm trong quá khứ? Nhưng lần này liệu
những đảng viên cộng sản (số rất đông) và con em họ, những “tư sản đỏ” có chấp
nhận chính sách đó hay chống lại? Và toàn dân Việt Nam liệu có đồng ý thực hiện
cái chính sách từng kéo lùi Sài Gòn tụt hậu 20 năm so với Băng cốc? Và nếu tính
chung cả nước Việt Nam thì sự tụt hậu và nỗi đau đớn do chủ nghĩa xã hội theo
mô hình Stalin gây ra còn ghê gớm hơn nhiều!
4. Vậy thì vì lý do gì
Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết kiên trì chủ nghĩa xã hội? Rốt lại,
vì chỉ có hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mới bảo vệ các lý lẽ về quyền
lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng Sản! Nhưng giữ nó thì phải gánh chịu “3 điểm
yếu” từng ngày bào mòn “3 thế mạnh” của Đảng, còn bỏ nó liệu có
phiêu lưu như Chủ tịch Nguyễn Minh Triết từng cảnh báo: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là
tự sát”?
Không! Tôi cho rằng trái lại, bỏ
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa sẽ đem lại rất nhiều điều thần kỳ cho Đảng
và cho Đất nước.
Tháng 7 năm 2009, ông Nguyễn Văn
An, nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên chủ tịch Quốc hội, có 4 bài viết và trả
lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam, nêu những tiêu đề: “Giờ là lúc phải đổi mới
toàn diện”; “Tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn Lý Quang Diệu” (ông Lý
Quang Diệu từng có ý kiến cho rằng việc hoạch định chính sách phát triển đất
nước đừng để ảnh hưởng của ý thức hệ); “Dân là gốc, pháp luật là tối thượng”;
“Dân là gốc thuộc phạm trù vĩnh viễn, Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử”;
“Không ai độc quyền chân lý”, “Qua tranh luận, thử thách trong cuộc sống... có
khi phải thay đổi nhận thức tới 180 độ”. Những ý kiến của ông Nguyễn Văn An đã
gợi ra nhiều điều quan trọng cho nội dung Đổi mới toàn diện.
Mới đây, trong bài phát biểu nhân
Kỷ niệm Quốc khánh, 2-9-2009, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố “Đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới”. Chúng ta đã đổi mới ngoạn mục về kinh tế, nay “Đổi mới
toàn diện” như Tổng bí thư tuyên bố chính là yêu cầu cấp thiết của toàn dân
tộc. Tiếc rằng,Tổng bí thư chưa nói rõ thế nào là Đổi mới toàn diện.
Chúng tôi nghĩ rằng Đổi mới toàn
diện cần có nội dung sau đây:
“Phải phù hợp với trào lưu thời
đại của nhân loại ở thế kỷ 21; Phải có tác dụng tăng cường đại đoàn kết toàn
dân tộc nhằm đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Phải
Đổi mới tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa,giáo dục, xã hội và chính trị.”
V. BỎ HỆ THỐNG CHÍNH TRI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: MỘT MŨI
TÊN TRÚNG NHIỀU ĐÍCH
1. Từ đây, Đảng và dân
tộc ta thực sự trở lại với tư tưởng Dân chủ Cộng hòa của chủ tịch Hồ Chí Minh
(như giáo sư người Nhật Yoshiharu Tsuboi nhận định) đã được thực thi sau Cách
mạng Tháng 8: Một chính phủ liên hiệp thể hiện quyền làm chủ rộng rãi của toàn
dân Việt Nam đoàn kết; Một Bản Hiến pháp 1946 tiến bộ, quy định rõ tổ chức
quyền lực Nhà nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân trong xã hội dân sự.
Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng
Hồ Chí Minh là một người không giáo điều, ý tưởng nào có thể áp dụng để đánh
đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc thì người chấp nhận. Người chịu theo Quốc tế
3 chỉ vì bản Cương lĩnh của Lênin ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Năm
1930, Chánh cương đoàn kết dân tộc do người soạn thảo cho Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã làm Stalin nổi giận: Là chủ nghĩa dân tộc, không phải cộng sản! Năm
1945, người tuyên bố tự giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để có thể tranh thủ
sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước đồng minh, tránh cho dân tộc không phải gánh
chịu cuộc chiến tranh tái xâm lược của thực dân Pháp. Chính các thế lực đế quốc
của Pháp và Mỹ đã buộc cụ Hồ phải dựa hẳn vào phe cộng sản.
Tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh
là:
* “Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt
Nam!”
* “Nước Việt Nam là một,dân tộc
Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ
thay đổi.”
* “Không có gì quý hơn Độc lập Tự
do!”
* “Nếu nước đã được độc lập mà
nhân dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”
* “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Chính vì thế mà một nhà sử học Anh
cho rằng, từ những ứng xử của người trong lịch sử có thể tin chắc, nếu còn sống
chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là người khởi xướng đổi mới một cách sớm sủa và mạnh
mẽ.
Trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta là “Đảng Việt Nam” sẽ được toàn dân tộc vui mừng, tin tưởng. Một chính
quyền thực sự là của Dân, do Dân, vì Dân, rủ bỏ được các khuyết tật đã kể ở
trên. Một xã hội dân sự, người dân có đầy đủ tự do, dân chủ, nhân quyền như các
nước tiên tiến. Nước ta thực sự hội nhập với thế giới trong mọi giá trị văn
minh của nhân loại. Từ nay không còn mang nỗi lo quái gỡ là sợ bị Diễn biến hòa
bình! (Gọi là quái gỡ bởi vì toàn nhân loại tiến bộ không có ai lo như thế.
Trái lại ở nước Singapore, người ta còn cho rằng “Thế giới đã thay đổi, nếu
chúng ta không thay đổi là chết!”). Từ nay không còn nơm nớp lo “Các thế lực
thù địch phương tây can thiệp vào nội bộ”. Và quan trọng hơn là từ nay ở vị thế
mới trong cộng đồng các quốc gia tiến bộ văn minh của nhân loại, chúng ta mặc
nhiên có những đồng minh chiến lược trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Có đồng
minh chiến lược không phải để gây chiến với bọn bành trướng mà là để có đủ sức
mạnh nói chuyện hòa bình, buộc chúng thực thi công lý, đòi lại biển đảo bị
chúng chiếm đoạt bất hợp pháp.
Với Nhà nước pháp quyền, với lực
lượng truyền thông “đệ tứ quyền”, có sự phản biện của xã hội dân sự, “giặc nội
xâm” cũng sẽ bị đẩy lùi.
2. Đổi mới Đảng
từ bỏ ý thức hệ cộng sản sẽ là phép màu san bằng rào cản, hòa giải hòa hợp với
3 triệu đồng bào ở nước ngoài, những người yêu nước, có tri thức, có tấm lòng,
nhưng không tán thành chủ nghĩa cộng sản và bị ám ảnh rất nặng nề bởi nỗi oán
hận từ quá khứ. Từ đây sẽ không còn những cuộc biểu tình chống đối chính quyền
trong nước, ngăn cản bà con muốn về xây dựng quê hương. Từ đây các em sinh viên
ưu tú du học ở các nước tiên tiến, tiếp thụ các lý tưởng dân chủ không còn nỗi
bức xúc, quay ra hoạt động chính trị đối lập với Nhà nước rồi lâm vào cảnh tù
tội oan uổng.
Sức mạnh toàn dân tộc sẽ tăng lên
gấp bội giúp cho sự nghiệp canh tân đất nước có hiệu quả hơn bao giờ hết. Lịch
sử sẽ ghi nhận hành động dũng cảm triệt để đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam
là mở ra con đường đại phúc cho dân tộc!
3. Đặt lợi ích
của Tổ quốc lên trên, liệu sự chọn lựa này có làm mất quyền lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam (sau khi đã là Đảng của dân tộc) hay không? Đã đặt lợi ích
của Tổ quốc lên trên thì không nên tính toán hơn thiệt. Tuy nhiên, chúng ta có
thể nhận thấy rằng không có một Đảng nào có thế mạnh từ lịch sử như Đảng Cộng
Sản Việt Nam (tiền thân của một Đảng dân tộc được kế thừa Đảng Cộng sản Việt
Nam). Là một Đảng lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, rồi chủ xướng đổi mới,
cuối cùng dám từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để tự biến mình hoàn toàn thành Đảng của
Dân tộc. Vậy thì trong tâm tưởng người Việt Nam yêu nước còn có thế lực nào
đáng gửi gắm niềm tin là có đủ tài, đủ đức lãnh đạo đất nước hơn một Đảng được
thừa kế Đảng Cộng Sản?
4. Khi đã có
Cương lĩnh đề ra mục tiêu và nội dung đổi mới, Đảng sẽ định một lộ trình thật
khoa học để từng bước thực hiện sự nghiệp trọng đại này một cách chắc chắn.
(a) Nhiều đảng viên cho
rằng: Nên trở về với Hiến pháp 1946, đó là Hiến pháp tiến bộ và dân chủ nhất từ
trước tới nay ở Việt Nam; Nên trở về với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam, là
Đảng của người lao động cũng là của nhân dân Việt Nam. Như vậy không phải tạo
ra Đảng mới nào cả mà vẫn là mới so với hiện nay. Nên khôi phục lại hai
đảng Xã hội và Dân chủ đã từng có, để tập hợp những người trí thức yêu nước và
giữ vai trò phản biện dân chủ.
(b) Tuy nhiên, có nhiều người cho
rằng nên từ thực tế hôm nay mà tìm lối ra thích hợp hơn là quay lại cái cũ. Ví
dụ, bắt đầu Luật hóa Điều 4 để sự lãnh đạo của Đảng không là Đảng trị. Xây dựng
luật bầu cử đảm bảo quyền tự do ứng cử bầu cử của nhân dân, để Quốc hội thực sự
là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, hệ thống chính quyền thực sự là của
dân, do dân, vì dân. Xây dựng một hệ thống pháp luật độc lập để Chính phủ điều
hành việc nước bằng pháp luật và chịu sự giám sát của nhân dân theo pháp luật.
Cuối cùng khi đến lúc đủ điều kiện sẽ soạn lại Hiến pháp theo đúng tinh thần
Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân và phù hợp với những công
ước quốc tế hiện nay.
Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể theo
cách của Đảng Xã hội Pháp hồi 1920: Những người muốn Đảng trở thành Đảng của
dân tộc và những người muốn giữ nguyên Đảng Cộng Sản tách nhau ra thành hai
Đảng. Sau đó, tổ chức trưng cầu ý dân bằng một cuộc bỏ phiếu kín chọn Đảng lãnh
đạo từ hai Đảng này. Đảng không được nhân dân chọn làm lãnh đạo sẽ trở thành
Đảng đối lập.
Tôi muốn nhắc lại bài học của Đảng
Nhân dân Cách mạng Campuchia trước đây để càng thêm tin tưởng việc triệt để Đổi
mới Đảng:
Khi chấp nhận hình thức Chính phủ
liên hiệp, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã mở Đại hội đề ra Cương lĩnh
mới, tuyên bố từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đổi tên Đảng thành Đảng Nhân
dân Campuchia (bỏ từ Cách mạng với ngụ ý trở thành Đảng của dân tộc). Đại diện
Đảng Cộng Sản Việt Nam dự Đại hội này là ông Lê Đức Anh, nguyên cố vấn cho Đảng
bạn, đã tức giận cho rằng “Chưa thua mà đã cuốn cờ!” (ý nói cờ cộng sản).
Lúc ấy thế và lực của Đảng Nhân dân Campuchia rất yếu so với Đảng Bảo hoàng của
Ranarit được uy tín của Sihanuc và Nhà nước Vương quốc yểm trợ. Vậy mà từ vị
thế phải chia đôi quyền lực Nhà nước (2 ông Thủ tướng, 2 ông Bộ trưởng, cho tới
các cấp dưới...) Đảng Nhân dân Campuchia đã vượt lên sau mỗi nhiệm kỳ và ngày
nay hoàn toàn ở thế thượng phong so với các Đảng đối lập.
Đảng Cộng Sản Việt Nam có những ưu
thế tuyệt đối mà Đảng Nhân dân Campuchia ngày ấy không thể sánh. Do đó giải
pháp triệt để đổi mới Đảng, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, trở thành Đảng của dân tộc,
không hề là phiêu lưu mà là một hành động sáng suốt, bắt đúng nhịp của thời
đại, đáp ứng đúng nguyện vọng của dân tộc, nhất định Đảng sẽ cùng Dân tộc đồng
hành tới tương lai vô cùng xán lạn!
Nguồn: http://www.viet-studies.info
|