Phạm Trần
Đảng và Nhà nước
Cộng sản Việt Nam đã tự tay bóp cổ mình khi thi hành, kể từ ngày
15-09-2009, Quyết Định nhằm triệt tiêu mọi đóng góp của các
Nhà Trí thức không chịu đi theo con đường của đảng để củng
cố Chế độ độc tài, độc đảng phản dân chủ bậc nhất ở Đông nam Á châu
trong thập niên đầu Thế kỷ 21.
Quyết Định số 97/2009/QĐ-TTg “Về
việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa
học và công nghệ” do Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng ký ban hành ngày 24
tháng 7 năm 2009 chỉ có 6 Điều, nhưng Điều 2 chính là “lưỡi dao mã tấu” chém
đầu những Trí thức không chịu phục tùng lệnh đảng.
Nguyên văn Điều 2 nói về “Trách nhiệm của cá
nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ” phải:
1. Chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động của
tổ chức khoa học và công nghệ do mình thành lập, tuân thủ các quy định của Luật
Khoa học và Công nghệ, Luật Báo chí, Luật Xuất bản và các pháp luật có liên
quan.
2. Chỉ hoạt động trong lĩnh vực thuộc Danh mục
ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà
nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với
danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ.”
Chính sự ràng buộc phản khoa học và phản dân chủ
này đã khiến cho 16 Nhà Trí thức ở trong nước, được coi như am hiểu và có
kinh nghiệm hàng đầu trong nhiều lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kinh tế,
Lịch sử, Ngọai giao và Giáo dục của Viện Nghiên Cứu
Phát Triển (Institutes Of Developmenty Studies, IDS) đã “quyết định tự giải thể để biểu thị thái độ dứt khoát của
Viện đối với Quyết định 97.”
Nhưng 16 Vị Học Giả này là ai và
họ thành lập IDS để làm gì? Đó là Giáo sư nổi tiếng Hoàng Tụy, Chủ tịch Hội
đồng IDS; Tiến sỹ Nguyễn Quang A, Viện trưởng ; Bà Phạm Chi Lan (Chuyên gia Kinh tế), Phó Viện trưởng; Giáo sư
Phan Đình Diệu; Giáo sư Chu Hảo; Tiến sỹ Kinh tế Lê Đăng Doanh; Bà Vũ Kim Hạnh (Cựu Tổng Biên tập Báo
Tuổi Trẻ, người nổi tiếng với các Bài báo chống Tham nhũng, Băng đảng. Bà bị
cách chức Tổng Biên tập vào năm 1992 khi chính Bà quyết định cho đăng lọat bài
về Đời tư của Hồ Chí Minh); Các Giáo sư Phạm
Duy Hiển;Vũ Quốc Huy; Tương Lai Phan Huy Lê;
Nhà văn Nguyên Ngọc, người đã công khai chống Khai thác Bauxite trên Tây
Nguyên; Các Ông Trần Đức Nguyên, Hùynh Sơn Phước; Trần Việt Phương và Nguyễn
Trung, Cựu Đại sứ.
IDS được thành lập vào ngày
27/09/2007, được Sở Khoa học Công nghệ Hà Nội cấp giấy phép hoạt động ngày
18/10/2007. IDS là một cơ quan tư nhân độc lập, vô vị lợi đầu tiên
ở Việt Nam chuyên về nghiên cứu và cung cấp dịch vụ về chiến lược, kế họach
phát triển cho các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các doanh
nghiệp, các cá nhân trong cũng như ngòai nước.
Trong 2 năm làm việc, viện IDS đã
thành công nghiên cứu 3 đề tài : Cái cách giáo dục và y tế nhìn từ khía cạnh
kinh tế học; Một số vấn đề về nông thôn và nông dân; Chất lượng tăng
trưởng kinh tế.
Theo tài liệu chính thức của
Viện, các Nhà Trí thức đã tổ chức được 15 Cuộc tọa đàm tại trụ sở số 53 Nguyễn
Du, Hà Nội và đã thu hút được sự chú ý và tham dự miễn phí của
nhiều giới trong nước.
Phản bác về quyết định hạn chế
các đề tài nghiên cứu của Nguyễn Tấn Dũng, Viện IDS
tuyên bố : “ Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa
biết đến, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những
đòi hỏi mới, cần có các quyết sách mới và các giải pháp thích hợp. Vì vậy không
thể bó khuôn mọi vấn đề được phép nghiên cứu trong cuộc sống vào một danh mục
dù danh mục ấy có rộng đến đâu. Quy định như vậy sẽ bó tay các nhà khoa học,
những người nghiên cứu độc lập, hạn chế sự đóng góp của họ vào việc xây dựng
chính sách đổi mới và phát triển đất nước.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng
tạo nhằm khám phá các quy luật vận động trong tự nhiên và xã hội; từ đó tạo ra
công nghệ mới, hoạch định chính sách phát triển và nâng cao dân trí để thúc đẩy
xã hội tiến lên. Trong cuộc sống còn có những lĩnh vực, những vấn đề đã trở nên
lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Thực tế này cũng là một đối tượng quan trọng của
công việc nghiên cứu, nhất là trong tình hình một quốc gia phải ra sức phấn đấu
khắc phục tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Trong một xã hội tiến bộ, công việc
nghiên cứu với tính cách như vậy không thể đóng khung trong một danh mục gồm
các lĩnh vực được quy định như đã nêu trong Quyết định 97.”
Trả lời cho việc nhà nước cấm
không cho các Nhà nghiên cứu phổ biến rộng rãi các ý kiến của mình khi công bố
dưới danh nghĩa của một Tổ chức như Viện Nghiên Cứu Phát
Triển, 16 Trí thức trả lời : “ Về vấn đề phản biện: Quá trình đi
lên của đất nước chưa có con đường vạch sẵn, cuộc sống có vô vàn vấn đề thuộc
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phản biện để có thể xử lý
đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều ý kiến phản biện về đường
lối chính sách bị cất hầu như không có thời hạn trong các “ngăn kéo” của các cơ
quan chức năng hoặc của những người có thẩm quyền có liên quan. Có quá nhiều
phản biện dưới mọi dạng như kiến nghị, đề nghị, thư, tài liệu nghiên cứu… không
bao giờ được hồi âm.
Ví dụ nổi bật nhất là cải cách giáo
dục – một vấn đề sống còn của sự phát triển đất nước, một yêu cầu bức xúc của
xã hội đang được dư luận và giới nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm,
phản biện công khai sôi nổi từ nhiều năm nay nhằm thực hiện những nghị quyết
của Đại hội Đảng và các Hội nghị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục. Tuy vậy,
sự phản biện này chưa được đánh giá và tiếp thu nghiêm túc.
Một ví dụ khác gần đây là vấn đề
bô-xít, được coi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Sự phản biện công
khai, quyết liệt vừa qua của rất nhiều nhà khoa học và các hiệp hội thuộc các
lĩnh vực khác nhau đã góp phần thúc đẩy việc ban hành quyết định ngày
24-04-2009 của Bộ Chính trị lưu ý những vấn đề phải quan tâm trong khai thác
bô-xít ở Tây Nguyên. Tuy vậy, còn biết bao nhiêu phản biện quan trọng khác
trong vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Trong tình hình nêu trên, cấm các tổ
chức khoa học công nghệ do các cá nhân thành lập phản biện công khai như nêu
trong Quyết định 97 thực chất là cấm phản biện xã hội, hệ quả sẽ khôn lường.”
Phân tích bằng con mắt của các Nhà
Khoa học, Viện IDS đã thẳng tay vạch ra cái “bẫy có chủ mưu” ẩn náu
trong Quyết Định 97 của Nguyễn Tấn Dũng, khi Nhà nước cho
phép cá nhân lên tiếng, nhưng lại chống ý kiến của một tập
thể. Các Nhà Trí thức viết : “Khoản 2 trong điều 2 của Quyết
định 97 không viết thành văn nhưng hàm ý để ngỏ khả năng: cá nhân được phép
phản biện công khai với tư cách riêng của mình. Như vậy, sẽ không thể giải
thích:
(a) Tại sao cá nhân thì được phản
biện công khai, còn tổ chức, tức trí tuệ tập thể và liên ngành được tập họp để
có thể có chất lượng cao hơn, thì lại không? Quy định chỉ cho phép cá nhân phản
biện công khai tạo thuận tiện cho việc vô hiệu hóa hay hình sự hóa việc phản
biện của cá nhân? Phải chăng quy định như vậy ngay từ đầu đã mang tính chất
không khuyến khích phản biện, mà có hàm ý làm nản lòng thậm chí hăm dọa sự phản
biện của cá nhân.
(b) Tại sao trong nhà nước pháp quyền
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một văn bản pháp quy có tầm quan trọng như
vậy lại có thể được thiết kế như một cái bẫy và để ngỏ khả năng cho việc vận
dụng cái bẫy đó?
IDS kết luận : “Việc cấm phản biện
công khai là phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ.”
Ngoài các quan điểm phản đối
thẳng thắn nêu trên, các Nhà Khoa học của Viện IDS còn lên án Nguyễn Tấn Dũng
và Chính phủ đã trắng trợn vi phạm Hiến Pháp. Họ nói: “Trước
hết, đối với Hiến pháp, điều 2 trong Quyết định 97 vi phạm Điều 53 quy định
công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của cả nước và địa phương; Điều 60 quy định công dân có quyền
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng tác; Điều 69 quy định
công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có
quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Các Trí thức cũng vạch ra những điều
sai trái của Quyết định 97 đã đi ngược lại tinh thần và nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6 tháng 8 năm
2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
“xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”.
NGHỊ QUYẾT VỀ TRÍ THỨC
Vậy Nghị quyết đầu tiên về Trí thức kể từ ngày
thống nhất đất nước năm 1975 đã nói gì?
Nghị quyết 27, trước tiên, đã xác quyết lòng
dạ “chào hàng” của đảng : “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền
tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền
bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan
trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao
nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng
tạo của đội ngũ trí thức.
Trí thức là những người lao động trí óc, có trình
độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và
vật chất có giá trị đối với xã hội.”
Sau khi nhìn nhận “Công tác trí thức của Ðảng
và Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Ðến nay vẫn chưa có chiến lược
tổng thể về đội ngũ trí thức”, Đảng CSVN đã tự đấm ngực xét
mình : “Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò,
vị trí của trí thức; đánh giá, sử dụng trí thức không đúng năng lực và trình
độ, ngay cả với những trí thức đầu ngành, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội ngũ
trí thức. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ chú trọng đến vốn tiền, vật chất
mà chưa coi trọng nguồn nhân lực có trình độ cao. Vẫn còn hiện tượng ngại tiếp
xúc, đối thoại, không thực sự lắng nghe, thậm chí quy chụp, nhất là khi trí
thức phản biện những chủ trương, chính sách, những đề án, dự án do các cơ quan
lãnh đạo và quản lý đưa ra.”
Đó cũng là một trong muôn vàn lý do đảng CSVN chưa
chiêu dụ được trên 300 ngàn Trí thức người Việt ở nước ngòai, đa phần thuộc Thế
hệ thứ hai của trên 3 triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi tị nạn Cộng sản sau
năm 1975. Ngay cả đối với một số Trí thức người Việt sống lâu năm ở nước ngòai
đến cuối đời muốn trở về giúp nước cũng đã chán nản với chính sách giáo
dục u tối chỉ biết “hồng hơn chuyên” của nhà nước nên khống ít người, dù
có thương nước mấy, cũng đành rũ áo ra đi không muốn ngoảnh mặt lại.
Bởi vậy, khi thấy đảng đã biết nhìn vào gương soi
mặt mình khi đưa ra Nghị quyết 27-NQ/TW, ngày 6 tháng 8 năm 2008, thì nhiều Trí
thức cũng lấy làm mừng vì ít ra đảng đã biết thừa nhận vai trò của
Trí thức trong tiến trình giữ nước và dựng nước, cũng như đã công
khai cam kết trước toàn dân qua 3 điểm :
1- Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng
tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh
là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng
lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Ðầu tư
xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
2- Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm
chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng
và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ
quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc.
3- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên
cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc
biệt đối với nhân tài của đất nước.
Ngòai ra Đảng CSVN cũng đã cam đoan với cả nước
sẽ: “Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để
khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án
phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy
chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng.”
Nếu đem nội dung đầy khích lệ và tự tin của
Nghị quyết 27 mà đảng CSVN đã hứa với đội ngũ Trí thức
so với Quyết Định 97 của Nguyễn Tấn Dũng nhằm loại Trí thức ra ngòai lề
xã hội và không cần đến sự đóng góp của họ cho đất nước thì
ai cũng muốn biết tại sao đảng đã nuốt lời của chính mình?
Có phải vì đảng và Nhà nước sợ không kiểm soát
được Viện Nghiên Cứu Phát Triển và nghi nhóm Giáo sư Hòang Tụy,
Tiến sỹ Nguyễn Quang A và 14 thành viên nổi tiếng của IDS là “những
phần tử chống đối Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”,
nên phải ra tay ngăn chặn?
Tiến sỹ Nguyễn Quang A, Viện trưởng IDS đã tố cáo
đích danh Nguyễn Văn Hưởng, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công An là người
đã đưa ra lời nói vu cáo này tại Hội nghị về An ninh
ngày 26-12-2008 do Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban
Bí thư Trung ương Đảng chủ trì.
Trong Văn thư đề ngày 16/01/2009 gửi Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng; Nguyễn minh Triết, Chủ tịch nước; Nguyễn
Tấn Dũng, Thủ tướng, và Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Bộ Công An; Tiến sỹ Nguyễn Quang
A còn trích lời Nguyễn Văn Hưởng đã hỗn xược nêu nghi vấn :“bọn
họ tụ tập tại 53 Nguyễn Du để làm gì?”.
Ông A đã yêu cầu phía đảng và nhà nước tổ
chức cuộc gặp bất cứ ở đâu để hai bên đối thọai cho rõ trắng đen, nhất là
về lời Hưởng tố giác vô bằng cớ nói rằng Tiến sỹ Nguyễn Quang A đã bí mật tiếp
xúc với nhân viên ngọai giao Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội.
Cho đến ngày 14-09-2009 khi Viện
IDS tuyên bố tự giải thể thì phía Đảng và Nhà nước
vẫn chưa trả lời yêu cầu của Tiến sỹ Nguyễn Quang A.
Nhưng hậu qủa nhãn tiền cho hành động của Nguyễn
Tấn Dũng khi đưa ra Quyết Định 97 đã rõ. Chính Dũng đã tự tay đeo thòng
lọng vào cổ Nhà nước để cắt đứt “liên hệ máu thịt” với
Trí thức và nhân dân. -/-
Nguồn: Ðối Thoại
|