Khi
có ý đi tìm người Sài Gòn, không hiểu sao khi chưa ra khỏi nhà tôi đã
biết có đi phỏng vấn đến tết Congo cũng không ai người Sài Gòn tự nhận
mình là người Sài Gòn gốc 3 đời hoặc mấy chục đời cả. Chắc rằng mọi
người sẽ hỏi lại tôi, sao hỏi chi cái chuyện tào lao, tầm phào hết sức
vậy cha nội, kiếm sống được ở Sài Gòn, là người Sài Gòn rồi.
Thật
ra trên khắp thế giới, phần căn cước của một người ít ai phân biệt dân
tỉnh lẻ hay dân thủ đô và đó là văn minh dân quyền căn bản nhất. Riêng ở
Việt Nam thì khác. Dưới chế độ cộng sản, việc phân biệt dân thủ đô, dân
thành phố lớn hay dân tỉnh lẻ, nông thôn, dân kinh tế mới,... là chuyện
căn bản. Ai cũng biết sự phân biệt đối xử của chế độ hộ khẩu là khắc
nghiệt, vấn nạn đó lâu ngày tạo nên cả một gói "tự hào” về địa vị chính
trị, kinh tế, văn hóa... dành cho dân có hộ khẩu thủ đô, thành phố trước
phần dân cư còn lại của cả nước.
Khi nền kinh tế mở cửa, dù chế
độ hộ khẩu vẫn không thay đổi nhưng những yếu tố kinh tế thị trường tư
bản đã phá vỡ toàn bộ những công dụng chuyên chế của chế độ hộ khẩu.
Theo nhu cầu mưu sinh và nhu cầu nhân lực của kinh tế thị trường, dân
tỉnh lẻ, nông thôn tràn về đô thị bất chấp chuyện họ sống đời không hộ
khẩu hoặc chỉ có cái gọi là chứng nhận KT3 (một loại giấy tạm trú).
Theo
thời gian, đội quân nhập cư tăng theo cấp số nhân và cả người nhập cư
thành đạt, người kiếm sống qua ngày trở thành nguồn dân số bá chủ. Chính
nguồn dân số và chất lượng dân số bùng nổ này đã dồn những ai tự huyễn
hoặc cho mình dân thủ đô gốc, dân thành phố cố cựu vào hội chứng yếu đề
kháng, trở thành những kẻ thất bại.
Nếu ai còn tự cho mình là dân
Hà Nội gốc, thật ra đó là lối nghĩ của dân được bảo hộ bởi chế độ hộ
khẩu thiếu dân quyền. Họ có thể trưng ra lý do là ông bà cha mẹ sống ở
Hà Nội trước chế độ cộng sản và họ thừa kế cái gốc người Hà Nội. Cơ sở
lý lẽ này là không minh bạch, vì trong lịch sử cận đại Việt Nam, theo
tìm hiểu, trước thời cộng sản nắm quyền không có chuyện độc đoán khoanh
tròn mực đỏ dân Hà Nội điểm tối ưu, và phần dân còn lại chỉ có điểm
trung bình kém.
Người Hà Nội trước thời cộng sản đủ khỏe mạnh tinh
thần và trí thức để rộng tay đón nhận tất cả các nguồn dân cư như đón
nhận dòng máu mới, cũng như đủ ứng xử văn minh để biết rằng cực đoan địa
phương tính là ngớ ngẩn. Chuyện dân thủ đô được tôn trọng kính nể... đó
là do phẩm chất người, chất lượng từ những công việc phục vụ cộng đồng,
quốc gia và được cộng đồng xác nhận trong chuẩn giá trị văn hóa chung,
chứ không phải một dạng đặc quyền đặc lợi do một thể chế độc tài chỉ
đạo.
Người Hà Nội đủ văn hóa để nhìn thấu rằng hiện trạng hư hỏng
của xã hội Việt Nam đều có nguyên nhân do thiếu nhân quyền. Cả dân tộc,
không phân biệt bất kỳ ai, vùng miền nào đều phải gánh chịu hiện trạng
xã hội hư hỏng tệ hại này.
Một giáo sư sinh ra ở Hà Nội di cư vào
Nam muốn giấu tên đã nói thật với chúng tôi rằng: "Chỉ thời đại này mới
có kiểu tự tôn bệnh hoạn địa phương thượng đẳng.”
Dân hào hiệp và dân nhập cư
Mỗi
tháng tôi đều đến một tiệm hớt tóc của một ông chủ trẻ trên đường Hồ Bá
Kiện. Tuổi chưa đến bốn mươi, anh có tổng cộng ba tiệm hớt tóc. Lần này
anh mời tôi hớt tóc, lấy ráy tai, ở một tiệm mới khai trương. Cô gái
lấy ráy tai cho tôi nói: "Ổng vài bữa nữa là sắm thêm xe hơi.”
Tôi
hỏi thẳng ông chủ tiệm là anh có mấy chiếc xe hơi rồi, anh chàng nói
giọng miền Nam lơ lớ: "Tính mua thêm một chiếc nữa là bốn. Xe tôi mua
cho cơ quan công ty thuê, họp đồng tính theo năm.”
Rồi anh kể:
"Năm 1980, anh từ Huế vô Sài Gòn làm phụ hồ, khổ trơ xương, ba năm không
biết mùi bún bò, mì quảng là gì.” Tôi hỏi anh: "Anh thấy người Sài Gòn
thế nào?” Mặt anh ngạc nhiên như người từ sao Hỏa xuống: "Rứa, lúc mới
vào tôi cũng có nghĩ người trong này ăn ngon, chơi bạo khác người quê
tôi, nhưng chỉ ở vài tháng là tôi thấy chỉ người có tiền là khác.”
Cái
anh chàng chủ tiệm hớt tóc này cũng như hàng triệu người từ nhiều thế
hệ đã nhìn thấy Sài Gòn là một nơi kiếm sống, kiềm tiền làm giàu. Ðối
với mọi người Việt Nam, tính cả dân thủ đô Hà Nội, Sài Gòn là vùng đất
hứa, là một kiểu giấc mơ Mỹ của người Việt Nam.
Một trí thức người
Bắc di cư kết luận: "Sài Gòn là đất Phật.” Nhiều người bạn ông bàn
thêm: "Giá trị rõ nhất của đất Phật trước tiên đây là nơi chốn bình yên,
bình yên cả trong chiến tranh, thiên tai và những vấn nạn đáng sợ khác
có nguyên nhân từ con người. Sài Gòn không có chuyện phân biệt đối xử
vùng miền, văn hóa và chủng tộc...”
Nhà báo hải ngoại TG. có lần
nói: "Chỉ cần vô Sài Gòn, có một cái bơm xe, ngồi ở vỉa hè Sài Gòn cũng
sống được, cũng thoát khổ mà tính chuyện khởi nghiệp.” Họa sĩ TC, có lần
kể: "Trước 1975, thi sĩ Nguyễn Ðức Sơn và cố nhà văn Nguyễn Thụy Long
có thời ăn cơm cháy, uống trà đá, ngồi xỉa răng ở một quán cơm xã hội.”
Mỗi
người, trong hàng triệu người từ nhiều thế hệ đều có riêng cho mình
những kỷ niệm sâu sắc về sự rộng lòng của đất và người Sài Gòn. Có người
còn nói nửa đùa nửa thật rằng, nếu ai có chí, dám đứng le lưỡi cho
người ta dán tem ở bưu điện thành phố chắc chắn không thiếu khách hàng.
Nhưng
Sài Gòn cũng có bất công. Ðiều bất công này không phải do Sài Gòn gây
ra mà chính là do không ít người đến với Sài Gòn gây ra. Có thể thông
cảm hiện trạng lúc nào họ cũng thương nhớ ca ngợi nguyên quán xuất thân
của họ. Và Sài Gòn cũng dễ quên không chấp khi có những người nhập cư
thành đạt, nên cơ nghiệp, chỉ nhận họ là người thành phố này, tỉnh nọ.
Sài
Gòn không hề chỉ là Sài Gòn của nơi kiếm tiền, chỉ là một nơi tạm trú,
bởi đa phần người nhập cư đã hoặc sẽ có khoảng đời sống ở thành phố này
dài hơn so với lúc họ sống ở nguyên quán sinh ra. Hãy đến các nghĩa
trang, các chùa có để cốt mà xem, hàng triệu người tứ xứ thuộc nhiều dân
tộc, nhiều thế hệ đã chọn gởi lại cho Sài Gòn nắm xương tàn.
Nhưng
người Sài Gòn anh là ai? Có người nói ngày nay muốn tìm người Sài Gòn
thì qua tiểu bang Cali ở Mỹ hoặc các cộng đồng người Việt lưu vong trên
khắp thế giới. Nhưng chúng tôi vẫn muốn tìm người Sài Gòn ở Sài Gòn.
Một
cô bạn của chúng tôi sinh ra ở một nhà bảo sanh trên đường Gò Công quận
6, có ông bà nội là người Hoa Minh Hương, ông bà ngoại là dân sanh ra ở
bến Mễ Cốc quận 8. Cô nói: "Nếu muốn biết ai là người Sài Gòn thì chỉ
cần nhìn cách họ đón tiếp đối xử với bà con cô bác ở quê lên thăm hoặc
lên kiếm việc làm. Bà ngoại tôi mỗi lần gặp bà con là mừng lắm, tấm lòng
của người tha hương mà. Ai cũng có họ hàng dây mơ rễ má, chớ có phải ở
đất nẻ chui lên đâu.”
Theo một ông già từng là lính VNCH, nay chạy
xe ôm ở quận Tân Bình, "đất Sài Gòn trước tiên là đất của những tay hảo
hớn, bởi chỉ có những người mạnh mẽ từ tâm hồn đến thể xác mới quyết
định bỏ xứ ra đi đến đất mới, cũng chính họ mở đường cho con cháu mưu
cầu sự sống mới và tự do. Tánh hảo hớn và phóng khoáng là máu huyết căn
cơ của người Sài Gòn.”
Ở góc đường Cao Thắng và Phan Thanh Giản cũ
(nay là Ðiện Biên Phủ) có một cái miếu lớn gọi là Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Nơi đây hàng ngày hàng đêm vẫn nghi ngút hương khói tưởng nhớ những
vong linh của tướng quân Lê Văn Khôi (con nuôi Tả quân Lê văn Duyệt) và
các nghĩa binh bị xử chém, vùi xác ở quanh khu Kỳ Hòa, thành Gia Ðịnh
dưới thời vua Minh Mạng. Một nhà nghiên cứu lịch sử miền Nam có lần nói
với tôi: "Không rõ lắm những nghĩa quân này có phải là người Sài Gòn
không, nhưng tôi tin chắc khi họ chết, anh linh họ là người Sài Gòn.”
Và
sẽ không tìm thấy một người Sài Gòn nào nếu tiếp tục nhìn lịch sử theo
lối độc quyền và thiển cận. Người Sài Gòn chỉ có một khi lịch sử được
minh bạch rằng, người Sài Gòn hôm nay chính là những người nhận được cơ
hội từ những người từng đến, sống và chết từ Sài Gòn-Gia Ðịnh trong
xuyên suốt các triều đại phong kiến, những anh linh tử sĩ VNCH, những
vong linh người vượt biển vì tự do và cả những nạn nhân khác của bóng
tối lịch sử.
Chỉ từ cách nhìn nhận này mới sáng rõ đúng nghĩa tánh hảo hớn-hào hiệp vì tự do và công bằng của người Sài Gòn.
May mà còn có Sài Gòn
Gia
đình bên ngoại tôi có một người anh họ, anh tên là Ba V. Trước 1975 anh
là lính sư đoàn 7 Bộ Binh VNCH đồn trú ở Gò Công. Quê anh ở ở một xã
heo hút dù không xa Sài Gòn nhưng rất nghèo... Sau biến cố 1975, anh và
gia đình càng lâm cảnh nghèo tệ hại hơn. Sài Gòn với anh là một thiên
đường tại thế, có lần anh nói với tôi: "Tao phục mày quá, sống được ở
Sài Gòn ngon thấy mẹ.” Lời anh đơn giản nhưng chí lý, người Sài Gòn thời
nào cũng rất bảnh trong cách nhìn của người địa phương khác.
Có
người sẽ phản bác tôi rằng, người Sài Gòn ngày nay không còn sang trọng
nữa. Nhưng trường hợp gia đình anh họ tôi thì lại đồng ý với tôi. Sau
1975 cả bảy đứa con của anh họ tôi đều không đủ ăn đến xanh mặt. Khi Sài
Gòn vào thời kinh tế thị trường cả năm đứa con trai, con gái của anh
đều trở thành người Sài Gòn, anh chỉ giữ lại được đứa con gái và đứa con
trai út làm người Gò Công cày cấy trên nửa mẫu ruộng hương hỏa. Ðiều
đáng nói là những người con Sài Gòn của anh, dù chỉ làm thợ hồ và nấu
bếp ở Sài Gòn nhưng đã đem lại một cuộc cách mạng kinh tế, lối sống văn
minh cho cả gia đình anh. Chất nông dân cố cựu của anh không còn như
trước, ở anh ngày càng rõ ra cái chất thị dân Sài Gòn do con anh truyền
bá.
Có hàng triệu gia đình ở Việt Nam hôm nay giống như anh, người
ta không thể thống kê hết những thay đổi theo kiểu Sài Gòn. Nhưng có
một điều người ta chắc chắn là văn hóa thị dân Sài Gòn hình thành từ
tinh hoa thể chế thực dân và ánh sáng của nền dân chủ tự do Ðệ Nhất và
Ðệ Nhị Cộng Hòa, ánh sáng này đủ mạnh để dung chứa mọi cách sống và để
truyền bá những điều tốt đẹp.
Tôi có dịp nói
chuyện với cô gái người Hà Nội, cô vào Sài Gòn làm nghề báo. Tôi không
biết cô có phải là người Hà Nội gốc hay không, cô nói: "Khi mắng cái dân
thiếu văn minh ngoài đấy, em có Sài Gòn để chứng minh là trong này
người ta không ai làm việc xấu hổ thế.”
Tất nhiên, không có vùng
rộng của lối sống văn minh nào lại không có mặt tệ nạn, nhưng cộng đồng
thị dân Sài Gòn không có kiểu hí hởn cả tập thể hùa nhau hái hoa Anh Ðào
của Nhật Bản triển lãm về làm của riêng, cũng không có những vấn nạn
không thể tưởng tượng được như chiếm thang máy chung cư, cho thang máy
chạy lên chạy xuống liên tục để vỗ con và đút cơm cho con mình ăn ngon
miệng.
Và không có cái kiểu nghĩ và hành xử như một cô ca sĩ trẻ
mà tôi quen. Cô này từ Hà Nội vào Sài Gòn tìm cơ hội thành "sao.” Trong
thời điểm Hà Ðông có quyết định sáp nhập vào Hà Nội, cô luôn miệng tục
tằn gay gắt với những người "đời đời kiếp kiếp” cô không nhận là người
Hà Nội, dù hàng ngày đang cùng thở, cùng sống ở không gian Hà Nội mở
rộng với cô.
Chính từ những cách nhìn kỳ thị kiểu này đã xác lập
một thứ ranh giới mà ở đó người ta tự cho Hà Nội như mình đây là tốt
đẹp, phần còn lại là tệ hại vì không phải là Hà Nội. Có gì đáng buồn
cười và xấu hổ cho bằng kiểu kỳ thị "địa phương thượng đẳng” đó. Và
chính đó mới là mầm mống, là nguyên nhân của vô số vấn nạn xã hội.
Vấn
đề không phải Sài Gòn không có người nhập cư quê mùa kém cỏi, nhưng cái
chính là văn minh Sài Gòn đủ mạnh để hướng mọi người đến phẩm chất tôn
trọng lợi ích cộng đồng và tự trọng trong lối sống cá nhân.
Ở phạm
vị rộng hơn, nhiều bậc thức giả chiêm nghiệm rằng, không phải năm 1975
"giải phóng Sài Gòn” mà chính là biến cố đó đem đến cơ hội giải phóng
toàn diện xã hội miền Bắc.
Hơn ba mươi năm qua, những ai công tâm
sẽ nhìn thấy những dòng người không thể thống kê hết từ miền Bắc vào Sài
Gòn để mưu cầu cuộc sống tốt hơn, qua từng cá nhân, họ hàng, thôn làng
vào Sài Gòn vào miền Nam rồi về thăm quê đã đưa về, đã truyền bá lối
sống văn minh vật chất và tinh thần Sài Gòn.
Bạn tôi, nhà thơ, là
một người Hà Nội sang trọng, anh vào và chọn Sài Gòn để sống và cũng có
thể coi anh là người tị nạn văn hóa ở Sài Gòn. Anh có những kỷ niệm vui
buồn sâu sắc dành cho Hà Nội, nên mỗi lần về quê trở vào là anh nói:
"Mình đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất là thấy nhẹ người.” Tất
nhiên cũng trùng hợp, người biết và chia sẻ tâm trạng "nhẹ người” này là
những Việt kiều lưu vong mỗi khi rời Việt Nam bay trở lại đất nước bao
dung mình.
Và từ những năm đen tối nhất của lịch sử cho đến thời
tạm dễ thở, không một nơi chốn nào của đất nước này được hàng triệu
triệu người Việt đồng tâm tin rằng: May mà Việt Nam còn có Sài Gòn!
Trần Tiến Dũng