Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-10-05
Sở hữu chéo đã lộ rõ mối nguy hiểm cho hệ thống tài chánh Việt
Nam ngay sau khi các thành viên trong Hội Đồng Quản trị ngân hàng ACB bị
truy tố.
AFP photo
Một dự án bất động sản ở ngoại ô Hà Nội bị trì hoãn lâu năm do Vinaconex làm chủ đầu tư. Ảnh chụp hôm 04/10/2012.
Thờ ơ hay bất lực?
Chức năng chính của Ngân hàng thương mại cổ phần
là gom tiền huy động từ người dân rồi cho vay ra nền kinh tế, do đó dòng
tiền phải được kiểm soát từ Ngân hàng Nhà nước một cách triệt để. Phải
rõ ràng, minh bạch để bảo đảm sự an toàn cho hệ thống cũng như quyền lợi
của người dân.
Thế nhưng Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình
trả lời trước quốc hội là ông không biết tiền từ đâu để tập trung một
lượng lớn trong việc thâu tóm ngân hàng SacomBank là điều khó thể giải
thích với người dân và nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thiếu minh bạch trong con số của hệ thống dẫn đến sự
luồn lách của các ngân hàng khi báo cáo lên NHNN. Ngân hàng ACB là một
ví dụ về tính không minh bạch của nhà nước kéo theo sự lợi dụng của các
nhân vật trong Hội đồng quản trị. Những thành viên cao cấp trong hội
đồng ACB lạm dụng vai trò của sở hữu chéo thành nơi làm giàu bất chính
và lũng đoạn thay vì dùng nó để sáng tạo những mô hình kinh tế lợi ích
cho cả hai bên: doanh nghiệp và ngân hàng như các nước Nhật, Hàn quốc
từng áp dụng.
TS Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng viện IDS đưa ra
những thí dụ mà những thành viên trong một ngân hàng luồn lách để nắm
nhiều cổ phiếu hơn so với quy định của nhà nước:
Tôi nghĩ nếu họ chỉ ra những lỗ hổng như thế thì họ
sẽ tìm cách để đưa ra những quy chế để kiểm soát. Thí dụ như số tiền
vượt quá bao nhiêu thì phải báo cáo như các nước văn minh. Không thể
chuyển khoản những số tiền rất lớn mà nhà chức trách không biết chúng đi
đâu thì đấy là một câu hỏi rất lớn về tiền tệ và nhất là trong việc
quản lý các giao dịch tài chính.
Một người có tỷ lệ bao nhiêu ở một công ty phải đựơc
thông báo. Ở Việt Nam thì mới có chuyện là người ta nhờ anh chị, vợ
chồng hay những người có liên quan cũng phải báo cáo thì lúc đó mới có
thể giảm bớt đi chuyện như người ta kêu ca vừa rồi. Tôi nghĩ rằng vấn đề
cơ bản vẫn ở chỗ hỏng ở pháp luật, và những người ở cơ quan nhà nước
mới là người phải chịu trách nhiệm.
Doanh nghiệp: nạn nhân đầu tiên
Một cây xăng ở Hà Nội. RFA photo
Sở hữu chéo hiện nay không những trở thành mối lo cho nhà nước mà
nó còn gây ác cảm cho doanh nghiệp và cả cho người dân. Trong các bài
phóng sự của báo chí không ít doanh nhân cho rằng họ là nạn nhân của sở
hữu chéo vì nó đã cấu kết với nhau thành một khối để áp đặt lãi suất,
bóp méo khả năng vay vốn tạo cơ hội đút lót cho ngân hàng để vay được
vốn có lãi suất ưu đãi. Sở hữu chéo còn tận dụng quyền lực để dùng nguồn
vốn ngân hàng mà họ sở hữu để đầu tư rất lớn vào sân sau chẳng hạn như
bất động sản. Trong những năm qua khi giá bất động sản tăng mỗi ngày
khiến giá đất tại Việt Nam tương đương tại những đô thị lớn như New York
hay Toronto thì hàng trăm ngàn tỷ đồng chạy từ ngân hàng vào các dự án
bất động sản của các nhóm lợi ích sở hữu chéo.
TS Vũ Đình Ánh, Chuyên gia Nghiên cứu Thị trường và Giá cả của Bộ tài chánh cho biết nhận xét của ông về hiện tượng này:
Tôi cho rằng sở hữu chéo ở Việt Nam về mặt nguyên tắc
thì không có gì đáng ngạc nhiên so với các nước khác bởi vì thật ra
Việt Nam cũng đã đoán trước được việc này và đã có quy định rất rõ liên
quan đến sở hữu chéo phải phù hợp với những luật của các tổ chức tín
dụng kể cả luật ban hành năm 2010. Nhưng vấn đề của Việt Nam liên quan
đến các ngân hàng hiện nay tức là sở hữu chéo và các doanh nghiệp sân
sau thiếu công khai, minh bạch gần như không kiểm soát nổi. Ai thực sự
là chủ ngân hàng và người nào thực sự chi phối một định chế tài chính
đến mức độ như thế nào và tiềm lực của người ta đến đâu thì khó mà biết
được.
Tuy nhận thức vấn đề nguy hiểm nhưng nếu công an kinh tế
làm đúng với chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là bắt giữ tất cả
những kẻ mà ông cho là thu tóm ngân hàng thì một sự sụp đổ giây chuyền
sẽ xảy ra vì quá nhiều đại gia hiện nay có sở hữu chéo, kể cả các tổng
công ty nhà nước. Lạm dụng vị trí và sự ưu đãi của nhà nước nên hầu như
tập đoàn nhà nước nào cũng có những đầu tư ngoài ngành mà bất động sản
và ngân hàng là hai lĩnh vực phổ biến nhất. Nếu tuyệt đối và cấp thời
chấm dứt sở hữu chéo sẽ xảy ra hiệu ứng đổ vỡ hàng loạt trên thị trường
chứng khoán vì hầu như tập đoàn nào cũng có tên trên bảng mua bán cổ
phiếu hàng ngày.
Ai thực sự là chủ ngân hàng và người nào
thực sự chi phối một định chế tài chính đến mức độ như thế nào và tiềm
lực của người ta đến đâu thì khó mà biết được. TS Vũ Đình Ánh
Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương Mại,
hiện là thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính, Tiền tệ quốc
gia cho biết:
Thật ra sở hữu chéo tại Việt Nam chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất là ngân hàng có sở hữu trong các doanh nghiệp, nó vừa là
chủ ngân hàng vừa là chủ doanh nghiệp và nó cho phép tài trợ cho doanh
nghiệp và do đó có nhiều hậu quả mà thế giới người ta đã lên tiếng phản
đối từ lâu. Qua kinh nghiệm các cuộc khủng hoảng 97-99 người ta đã loại
bỏ ra rồi và Hàn quốc là một thí dụ. Thứ hai là có sở hữu chéo giữa các
ngân hàng, một ông vừa chủ ngân hàng này mà lại vừa có vốn ở một ngân
hàng khác như vậy nên sinh ra rất nhiều bất cập trong quản lý ngân hàng.
Thậm chí ngân hàng còn vay lẫn nhau và thông đồng tài trợ này kia.
Những lộ trình cần thiết
Ngân hàng Nhà nước VN. RFA photo
Nhóm sở hữu chéo có khả năng vốn rất mạnh vì nó đang là chủ nhân
thật sự của nhiều doanh nghiệp lớn. Quyền lực ngầm của nó không thể xem
thường là lý do khiến nhà nước chùn tay khi đụng tới sở hữu chéo. Ông
Trương Đình Tuyển cho biết ý kiến của mình:
Anh nói hoàn toàn đúng tức là đối với nền pháp luật
còn yếu kém của Việt Nam thì để giải quyết chuyện này không phải là đơn
giản, đấy là một thực tế nhưng bây giờ cũng buộc phải làm và cần có
nhiều lộ trình xóa bỏ nó chứ không phải dập một cái là được ngay.
Phải từng bước một đặc biệt trong tình hình thị
trường chứng khoán đang cón rất là tối tăm hiện nay. Việc đầu tiên là
phải công khai minh bạch tất cả các sở hữu chéo rất rõ ràng và chặt chẽ.
Trong lộ trình xóa bỏ sở hữu chéo ấy cũng không phải là đơn giản vì
ngay bây giờ các ông tập đoàn kinh tế của chúng ta nó cũng có sở hữu
chéo, nó cũng đầu tư vào chứng khoán, vào ngân hàng, bất động sản.
Muốn xóa bỏ nó tại thời điểm này thì không đơn giản
vì họ bỏ vốn vào thị trường chứng khoán nhưng với tình hình chứng khoán
thế này thì nếu bán đi vốn sẽ sụt giảm ngay. Phải có nghiên cứu nếu anh
không nghiên cứu có thì khó đề ra một giải pháp đúng được. Nếu để nó
tiếp tục thế này thì rất phức tạp cho nên tôi nghĩ có hai bước cơ bản,
một là công khai minh bạch cho thật rõ ràng để thấy cái bức tranh thực
của nó như thế nào và từ bức tranh ấy mình xem xét lộ trình loại bỏ nó
cho phù hợp với thực tế, bảo đảm tổn thất ít nhất và không gây ra biến
loạn trong các hoạt động kinh tế.
Phải từng bước một đặc biệt trong tình
hình thị trường chứng khoán đang cón rất là tối tăm hiện nay. Việc đầu
tiên là phải công khai minh bạch tất cả các sở hữu chéo rất rõ ràng và
chặt chẽ. Ông Trương Đình Tuyển
Kinh tế Việt Nam đang đặt dưới sự theo dõi của nhà đầu
tư ngoại quốc vì đối với họ, Việt Nam có biểu hiện quay trở lại cái mốc
ban đầu khi tập trung nguồn lực chứng minh đất nước này thật sự muốn đổi
mới để hòa nhập với thế giới. Khi ấy nhà đầu tư ngoại quốc chiếm được
ưu thế nhân công rẻ, thuế quan ưu đãi và mặt bằng nhà máy được cho thuê
với cái giá như cho. Khi nhà máy của họ bắt đầu sản xuất những sản phẩm
đầu tiên thì đồng vốn của họ chắc chắn sẽ đựơc thu lại nhanh chóng.
Trong tình hình hiện tại người đầu tư khó thể tin rằng
khi bỏ tiền vào Việt Nam thì họ sẽ được lợi thế như cách đây hơn hai
chục năm. Từ những sự kiện vừa trình bày người ta sẽ không ngạc nhiên
khi tờ New Week hôm 1 tháng 10 có bài viết "Từ hổ đến mèo: Kinh tế Việt
Nam trật đường rày” hay Reuters không ngần ngại giật tít "Việt Nam là
gương xấu”. Cả hai tác giả đều tỏ ra rành rẽ từng chi tiết của kinh tế
tài chánh Việt Nam hơn là người trong cuộc. Đây là điều mà dân gian Việt
Nam thường bảo "trong thì tối mà ngoài thì sáng”.
|