Tháng Ba 5, 2010
Roger Conhel – Trần Quốc Việt dịch
Bắc Kinh – Tôi đã có dịp đến thăm các vị thánh Châu Á trong
những lăng tẩm có hàng dãy cột của họ và lòng tự hỏi họ sẽ nghĩ gì về
các xã hội đã được kiến tạo nhân danh họ. Tương lai của các vị thánh
này rồi ra sao sẽ là một câu hỏi trọng tâm trong thế kỷ 21.
Trước tiên, ở Hà Nội, có Hồ Chí Minh, con người phiêu bạt khắp thế
giới (có một dạo đã dừng chân ở Brooklyn), một khắc tinh quỷ quái của
quân đội Pháp và Mỹ, người thống nhất một nước Việt Nam độc lập, "Bác”
của cả nước, giờ bị ướp xác ngược lại ý nguyện của ông là muốn tro mình
được đem rải. Cậu con trai 15 tuổi của tôi, lóng ngóng vụng về như
thường thấy ở Brooklyn, bị khiển trách là đã đút hai tay vào túi vì làm
như thế là thiếu tôn kính.
Roger Conhen - Ảnh: NYT
Tôi nghĩ con tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy một xác chết, lại càng
chắc chắn chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một xác chết đã được ướp suốt
trong bốn thập niên. Những người lính Việt Nam bảo vệ lăng lại lầm
tưởng sự vụng về là thái độ. Đầu óc ta cứ quay cuồng theo ý nghĩ miên
man về vị thánh đã không còn dương khí ở ngay trước mặt.
Rồi, ở đây trong một Bắc Kinh lạnh như cắt thịt, vào một buổi sáng
trời đầy nắng ở quảng trường Thiên An Môn, sau khi đi ngang qua một
tiệm McDonald, tôi chợt nhận ra rằng chỉ có mỗi mình tôi với Mao Trạch
Đông, Người Cầm Lái và Người Thầy Vĩ Đại, người trông hơi hồng hào hơn
so với Hồ. Thấy chẳng có ai khác xung quanh, tôi định nấn ná thêm,
nhưng người lính bảo vệ không cho phép.
Tưởng chừng như mấy phút với các vị thánh Châu Á im lặng ngàn thu
này đều được bấm giờ chi li như mấy phút với một luật sư ở New York.
Nói nhiều người chết vì các tư tưởng của Mao và Hồ là cách nói nhẹ
nhàng lịch sự. Theo ước tính, chỉ riêng nạn đói tại Trung Quốc diễn ra
từ năm 1958 đến năm 1961 đã cướp đi sinh mạng của 35 triệu người. Đó là
trước "thập niên kinh hoàng” của Cuộc Cách mạng Văn hoá, khởi đầu vào
năm 1966, đã làm tan nát bao tâm hồn giống như cái đói đã làm tan nát
bao hình hài.
Hồ, mà những chuyến lang thang dài qua khắp Châu Âu và Mỹ là sự gợi
nhớ rằng các tư tưởng cách mạng được nhen nhúm lên trong thời gian tha
hương ở Phương Tây không có gì là mới (dù có khác với Hồ là những kẻ
theo đuổi thánh chiến chống Tây Phương ngày nay trưởng thành ở London
hay Hamburg), đã không làm những chuyện tầm cỡ như Mao. Nhưng hơn ba
thập niên chiến tranh, rồi tiếp đến là chương trình tập thể hoá toàn
diện, đã gây ra cái chết cho hàng mấy triệu người.
Những vị thánh này một thời đã có quyền lực tuyệt đối và các đòi hỏi
của họ về sự tuân phục rất lớn. Vậy tại sao họ vẫn được tôn kính? Tôi
nghĩ trước hết là vì họ đã khẳng định sự kiến quốc, mối đoàn kết, lòng
tự hào và nền độc lập của quốc gia của họ chống lại nạn thực dân hoá
Tây Phương hay chống lại nạn ngoại xâm và qua đó giải thoát đất nước họ
ra khỏi những hình thức tủi nhục.
Thật ra ta phải chấp nhận sự thực là, ở một mức độ nào đó, Mao và
Hồ là những vị thánh chống Tây Phương trong một thời đại khi quyền lực
và thẩm quyền đạo đức của Tây Phương đang bị chất vấn khắp nơi, một
khuynh hướng mà lòng hâm mộ toàn cầu dành cho tổng thống Obama cũng
chẳng vớt vát được gì.
Tất nhiên, Mao và Hồ cũng duy trì được ảnh hưởng thống trị của mình
như hiện nay vì các đảng cộng sản mà họ đã lãnh đạo vẫn còn đang cai
trị những nhà nước theo chế độ độc đảng, và vì các đảng này đã viết lại
ý thức hệ của hai người. Tư tưởng của Mao không chấp nhận tiệm McDonald
đó.
Giờ đây, về cơ bản, họ chỉ còn là các vị thánh 70 phần trăm, tức
những vị thánh đã bị rút nhỏ lại. Đặng Tiểu Bình đưa Trung Quốc theo
con đường phát triển nhanh chóng, đã và đang thay đổi thế giới qua việc
thừa nhận rằng Mao đã sai lầm (khoảng độ 30 phần trăm) và rằng một cuộc
cách mạng vô sản để cho người dân đói nên nhường chỗ cho một cuộc cách
mạng qua đó người dân có thể làm giàu theo kiểu hơi giống tư bản. Tương
tự như vậy, khi Việt Nam rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, tầng lớp cộng
sản cai trị ở Việt Nam chợt khám phá ra, hay có lẽ đã chế ra, một lời
kêu gọi của Hồ là "người nghèo nên giàu và người giàu nên giàu hơn” để
biện minh cho việc ngả sang nền kinh tế thị trường.
Những vị thánh 70 phần trăm này là những con người hấp dẫn. Họ đã
buông dao đồ tể. Họ không bắt giam tập thể. Họ không cố gắng tiến nhanh
lên thiên đường không tưởng.
Không, họ xây tường lửa thay vì thành quách. Họ sợ phản đối ôn hoà
hơn sợ các phong trào bạo lực. Họ cấm Facebook thay vì lưu đày người
dân đến các trại tù. Họ ít tàn bạo hơn nhưng lại gây phiền toái nhiều
hơn. Tóm lại, họ đã trải qua nhiều lần son phấn lại dung nhan trong thế
kỷ 21.
Những lớp son phấn mới này đã thành công. Tuy vẫn có thể, nhưng thật
khó mà tưởng tượng sự tồn tại của các nhà nước độc đảng Việt Nam và
Trung Quốc nếu không có sự phát triển thần kỳ do chủ nghĩa cộng sản thị
trường tạo ra.
Tuy nhiên, có điều là những xã hội năng động như thế ắt sản sinh ra
nhiều người có giáo dục hơn, giàu có hơn; rồi theo thời gian chính
những người này sẽ trăn trở về những điều xa hơn chuyện tậu được cái
nhà lớn hơn hay mua được chiếc xe hơi. Họ bắt đầu trăn trở xem họ nên
chọn ai làm lãnh đạo. Họ trăn trở về tự do ngôn luận. Họ lấy làm bất
mãn trước tệ nạn tham nhũng. Họ lấy làm lạ tại sao họ không thể Twitter.
Cho nên một nghịch lý rất lớn là những kẻ chăm sóc các vị thánh 70
phần trăm này trong lòng lại thấy rất bất an ở ngay chính thời điểm khi
mà mọi thứ đều diễn ra theo như ý họ, khi họ có sự phát triển mà Tây
Phương nằm mơ cũng không thấy, khi ai ai cũng nói về sự trỗi dậy của
Trung Quốc.
Chỉ khi xét đến sự bất an như thế người ta mới có thể hiểu được việc
kết án quá nặng tới 11 năm tù của Trung Quốc dành cho Lưu Hiểu Ba, một
nhà văn và cũng là nhà hoạt động chính trị. Ông Lưu là nhân vật chính
đằng sau một văn bản kêu gọi nên tự do hoá về chính trị có tên là Hiến
Chương 08 trong đó tuyên bố: "Chúng ta nên chấm dứt thói quen xem lời
viết là tội.”
Và cũng chính sự bất an tương tự giải thích việc Việt Nam bắt giam
Lê Công Định, một luật sư có sức lôi cuốn. Hành động thúc đẩy sự đa
nguyên của ông Định khiến ông bị kết tội cấu kết với "các thế lực phản
động trong và ngoài nước.”
Các vị thánh của Châu Á đã chứng tỏ là biết thích nghi theo thời
thế. Nhờ đó thành quả tạo ra thật choáng ngợp, cho xã hội của họ và cho
thế giới. Nhưng những lời viết của những người tù này, hoàn toàn, không
phải là tội, và tình cảnh của họ là một sự định lượng về mức độ căng
thẳng ẩn dưới các lớp son phấn làm đẹp của chế độ.
Nguồn: New York Times ngày 7 tháng Giêng năm 2010;
|