Thanh Trúc, phóng viên RFA
2012-10-21
TS Vũ Quang Việt, một cựu nhân viên LHQ, hiện là tư vấn cho LHQ
và một số tổ chức các nước, góp ý rằng phản biện là từ chỉ có ở Việt
Nam, phát sinh sau quyết định 97 của thủ tướng chính phủ, phản ảnh lý
luận một cách ôn hòa của giới trí thức trong nước.
Photo courtesy of diendan.org
TS Vũ Quang Việt
Phản đối bằng lý luận
TS Vũ Quang Việt: Phản biện là một chữ xuất phát từ Việt Nam
và có lẽ chỉ có Việt Nam dung; nó phản ảnh cái hoạt động ở Việt Nam
trong thời gian qua, do đó phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ phản biện này.
Tôi nghĩ phản biện có thể hiểu là phản đối một cách hòa bình bằng lý
luận của giới trí thức Việt Nam. Tức là không chỉ nói lên ý kiến mà còn
đòi quyền có ý kiến. Có nghĩa rằng người trí thức ở Việt Nam không có
quyền phát biểu ý kiến một cách rộng rãi trước dân chúng, và đặc biệt
phản biện trở thành một hoạt động của những người trí thức về mặt lý
luận ở trên Internet và ở khắp các hệ thống gọi là lề trái.
Thanh Trúc: Thưa TS Vũ Quang Việt, ông có nói ở Hoa Kỳ
người ta chỉ dùng chữ "public comments” dịch đúng nghĩa là qui trình góp
ý có tổ chức của công chúng về những đề án công. Thế thì có thể áp dụng
định nghĩa này cho chữ phản biện không, và tại sao gọi là qui trình?
TS Vũ Quang Việt: Public comments không thể dịch là phản biện
được, vì public comments ở bên Mỹ có nghĩa bất cứ một công trình gì có
ảnh hưởng đến công chúng, có thể lấy đất của công chúng để làm gì đó, có
thể dùng ngân sách để làm gì đó …thì phải có một qui trình góp ý kiến
của công chúng về đề án công đó.
Nói đến qui trình là nói đến luật, phải ghi ra những đề án được xuất
bản để cho mọi người thấy rõ và được quyền đọc, được bao nhiêu ngày sau
đó để có ý kiến và được tổ chức góp ý kiến. Nếu là một đề án công của
thành phố thì qui trình của ý kiến là phải mời hoặc là loan báo cho mọi
người rõ có cái public hearing được thông báo trước.
Phản biện trở thành một hoạt động của những người trí thức về mặt lý luận ở trên Internet và ở khắp các hệ thống gọi là lề trái.
TS Vũ Quang Việt
Nếu đề án xảy ra ở khu phố thì có Hội Đồng Khu Phố phát biểu ý kiến,
sau đó sẽ lên quận, quận lên thành phố. Từng qui trình như vậy thì có
thời gian rõ ràng là khi nào được phát biểu ý kiến, phải có public
hearing tức phải để cho người ta có ý kiến được tổ chức đàng hoàng.
Rồi thì có thể những người làm đề án, hoặc là chính phủ hoặc là những
nhóm lợi ích, họ thấy bị phản đối, bị không đồng ý thì họ phải sửa lại
và phải tổ chức lại cái hearing cho đến khi nào chủ tịch Hội Đồng Thành
Phố thấy rằng không thể thông qua được và không đưa ra bỏ phiếu, hoặc là
ông quyết định đưa ra bỏ phiếu nếu thông qua được. Đấy là một qui trình
đóng góp được tổ chức và như vậy thì không tạo ra sự chống đối.
Còn ở Việt Nam thì không có qui trình, không cho người ta phát biểu
nữa chứ đừng nói đến qui trình. Do đó chữ phản biện ra đời mà đầu tiên
là dự án bô xít Tây Nguyên, vì giới trí thức thấy không có lợi về mặt
chính trị, kinh tế, môi trường… Họ phải tổ chức ra để có ý kiến.
Vấn đề phản biện này phải hiểu trong cái context của Việt Nam tức là
họ đòi quyền tự do có ý kiến. Phải nói nó là một phong trào phản đối
bằng lý luận một cách hòa bình của giới trí thức Việt Nam. Không dễ dàng
dùng một từ nào tiếng Mỹ mà có thể dịch từ phản biện được.
Thanh Trúc: Kể cả từ "counter argument”?
TS Vũ Quang Việt: Nó không có nghĩa. Counter argument thì bất
cứ người nào cũng có thể có counter argument ở bất cứ nơi nào. Nhưng mà
chữ phản biện nó có ý nghĩa chính trị, nó phản ảnh hoạt động của giới
trí thức Việt Nam chứ không phải của nông dân. Không phải đi biểu tình
mà gọi là phản biện, cái này là chống đối một cách hòa bình và bằng lý
luận.
Không phải tạo phản
Một số các trang mạng, các Blog được gọi là báo chí lề trái. RFA file.
Thanh Trúc: Thủ tướng Việt Nam có quyết định số 97, cho
phép người có ý kiến gởi tới nơi có thẩm quyền quyết định, để nói về
nguyện vọng của mình. Vậy quyết định 97 đó có ý nghĩa của việc cho phép
phản biện hay không?
TS Vũ Quang Việt: Quyết định 97 của thủ tướng không cho giới
trí thức có ý kiến ngoại trừ đưa những ý kiến đó thẳng tới những cơ quan
có trách nhiệm. Phản biện có nghĩa là phải làm ra phải để cho công
chúng biết chứ không phải chỉ được gởi cho người đưa ra đề án đó cho họ
đọc và họ vất vào thùng rác.
Mà thông thường ở Việt Nam toàn bộ những ý kiến của trí thức hay của
dân chúng là họ vất vào thùng rác hết. Vì họ cũng chỉ nói là mở ra cho ý
kiến, nhận được một triệu hay bao nhiêu triệu hoặc mấy trăm ngàn ý kiến
thế là chấm dứt. Tức là không phải cái quyền tự do ăn nói. Quyết định
97 nhằm cho đám trí thức ấy không được mở miệng nữa, một hình thức bịt
miệng rồi.
Thanh Trúc: Trong thời gian qua người dân Việt Nam cũng như
các tổ chức xã hội phải làm quen nhiều với những hoạt động phản biện.
Theo ông, phản biện này tiếp nối phản biện khác thì…
TS Vũ Quang Việt: Đó là cái dấu hiệu là nhà nước đó không có
một qui trình gì cho người ta có tiếng nói, mà lại là tiếng nói của
những người có học, tiếng nói hòa bình, đóng góp vào cho xã hội tốt đẹp
hơn.
Như tôi nói bên Mỹ có qui trình cho mọi người góp ý kiến, còn Việt
Nam không có qui trình đó mà cơ bản quyết định 97 là không cho phép
người ta mở miệng, thì người ta phải phản biện trên Internet, trên blog.
Việt Nam coi những cái đó là xấu, coi giống như là diễn biến hòa bình.
Cơ bản nó cũng là diễn biến hòa bình thật. Tức là muốn thay đổi xã hội
Việt Nam một cách hòa bình chứ không phải là chống đối. Trung Quốc
thường dùng chữ tạo phản, người dùng lời nói hay hành động có ý muốn lật
đổ chính phủ thì họ gọi là bọn tạo phản. Ở Việt Nam rõ ràng phản biện
không phải là hình thức tạo phản.
Thanh Trúc:Xin cảm ơn tiến sĩ Vũ Quang Việt.
|