Trong
cuộc đấu tranh giành tự do dân chủ cho Việt Nam hiện nay, nhằm giải thể
chế độ độc tài độc đảng Cộng Sản đang nắm quyền. Việc xác định tư tưởng
và đường lối đấu tranh là điều hết sức quan trọng, nhất là đối với các
nhà lãnh đạo của các tổ chức đấu tranh. Quan điểm "đấu tranh đòi công
lý thay vì đấu tranh giành dân chủ” là một quan điểm chưa chính xác về
mục tiêu và ý nghĩa của hành động tranh đấu..
"Tư tưởng chỉ đạo hành động, tư tưởng đúng thì hành động mới đúng”.
Trước hết muốn tìm hiểu xem khái niêm "Công Lý” là gì và nó được bắt
nguòn từ đâu, chúng ta sẽ phải xác định được sự công bằng là gì?
Công bằng có tự khi nào?
Thực ra công bằng đã có từ rất sớm, có lẽ là từ khi con người còn
sống theo hình thức bộ lạc, bộ tộc, và nó là kết quả của sự phát triển
lý trí, trong sự tiến hóa về mọi mặt của loài người. Sự công bằng thủa
sơ khai hiện diện cùng với tự do bản năng, ví dụ, xuất phát từ tình cảm
tự nhiên giữa con người với con người, một nguyên tắc nảy sinh: "Kẻ
mạnh bảo vệ kẻ yếu” trong cộng đồng trước sự tấn công của thú dữ cũng
như sự cạnh tranh từ các nhóm người khác…
Cao hơn chút nữa, cách thể hiện công bằng, đó là sự chia phần các
sản phẩm hái lượm và săn bắt. Thông thường, khi đi săn bắt và hái lượm
trở về, con người thời cổ đại thường chia những thức ăn ngon cho trẻ
nhỏ và người già. Tất nhiên, kẻ đứng đầu của bộ lạc sẽ được chọn phần
ưng ý nhất.
Về ngôi thứ, hình thành theo lối nguyên thủy, tức là kẻ mạnh nhất
(hoặc từng là kẻ mạnh nhất), sẽ là người đứng đầu. Người này cũng sẽ
phải đi đầu xông pha trận chiến, bảo vệ cho những người yếu đuối hơn có
thì giờ trốn tránh kẻ thù. Tất cả những sự sắp đặt này đều là tự nhiên,
bất thành văn, và người ta coi những sự sắp đặt tự nhiên như vậy chính
là biểu hiện tính công bằng.
Tuy bộ óc của con người thời cổ chưa ý thức được công lý là gì, nhưng rõ ràng họ đã ý thức được sự công bằng.
Vậy thế nào là một sự công bằng chuẩn mực? Phải khẳng định ngay
rằng, không có một thang chuẩn nào cho sự công bằng theo nghĩa phổ
quát. Đơn giản vì quan niệm của mỗi người, mỗi nhóm người về sự công
bằng là khác nhau, mỗi phạm vi không gian sống khác nhau, mỗi miền khác
nhau, mỗi vùng lãnh thổ cũng khác nhau. Như vậy là không thể có "sự
công bằng vô hạn”, mà chỉ có "sự công bằng hữu hạn”.
Ở góc độ quyền lợi. Nếu tại nơi này người ta coi sự phân chia lợi
ích theo phương châm A là đúng đắn và công bằng, thì ở nơi khác rất có
thể người ta coi sự phân chia lợi ích theo cách đó lại là thiếu công
bằng.
Một ví dụ, khi người đi săn và con chó của anh ta kết thúc cuộc đi
săn. Phần thưởng cho chú chó thông minh và trung thành là một phần hoặc
toàn bộ cái đầu của con thú săn được. Một người đi săn khác giống như
vậy nhưng anh ta coi trái tim của con thú mới là quý, nên anh ta tặng
nó cho con chó săn của mình. Cả hai người thợ săn đều nghĩ là mình đã
chia phần công bằng. Nhưng rõ ràng là hai sự chia phần nói trên chỉ
giống nhau về mục đích và ý nghĩa, nhưng hoàn toàn khác nhau về sự công
bằng trên giá trị sản phẩm vật chất.
Ở góc độ nghĩa vụ. Trong mối quan hệ gia đình Mẫu Hệ, người phụ nữ
là chủ gia đình, quản lý điều hành mọi công việc và đồng thời là lao
động chính nuôi gia đình. Nhưng trong mối quan hệ có hình thức ngược
lại, thì người đàn ông là chủ sự gia đình và người phụ nữ không được
coi trọng, thậm chí là không được tôn trọng. Vậy đâu là sự công bằng
chuẩn mực? Sự sắp xếp nào là hợp lý? Còn trong xã hội văn minh ngày
nay, nam nữ bình quyền, người ta cho đó là sự công bằng. Nhưng nếu đặt
quan điểm này vào trong xã hội của người Hồi Giáo chẳng hạn, thì có
được chấp nhận hay không? Chắc chắn là không!
Về khái niệm "Công Lý”. Giống như khái niệm "Dân Chủ”, khái niệm về
"Công Lý” cũng đã tốn nhiều giấy mực và thời gian nghiên cứu của các
triết gia hàng đầu thế giới như Locke, Kant, sau này là Rawls vv…Đến
ngày nay, đại đa số đều nghiêng về ý kiến xác nhận rằng: "Công lý là sự
công bằng”.
Thực ra, khác với sự hiện diện của Dân Chủ (một phát minh mở vĩ đại
về tư tưởng kiến tạo mô hình xã hội chuẩn tiên tiến), Công Lý chính là
sự công bằng theo một chuẩn mực có tính quy ước, thể hiện thành văn bản
hoặc được người đời chấp nhận như là một quy định bất thành văn. Nó chỉ
có giá trị xác định tại mỗi thời điểm (giai đoạn) nhất định và trong
mỗi không gian sống có ranh giới mà thôi.
Theo luận thyết của John Rawls: "Một quan niệm chính trị về công
lý”. Ông cho rằng, "công lý là sự công bằng” và tính chất chung của nó
được diễn giải như sau:
1. Công lý là cấu trúc căn bản của tất cả những cơ chế và định chế kết hợp lẫn nhau thành một hệ thống điều hợp xã hội.
2. Quan niệm này không dựa trên hay bắt nguồn từ một chủ thuyết toàn
diện nào, nhưng nó cũng có thể được biện minh từ một hệ thống tư tưởng
toàn diện khác.
3. Quan niệm này cũng đặt cơ sở trên một bối cảnh văn hóa chính trị công cộng nào đó.
Có vẻ như quan niệm của John Rawls "công lý là sự công bằng” còn có
điểm chưa rõ ràng. Nhưng nếu như ta hiểu vấn đề theo cách dùng "trực
giác luận” và "hữu minh luận” thì công lý, là một hệ thống cơ cấu xã
hội công cộng nào đó. Nó phân chia quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm
cho cộng đồng và mỗi cá nhân theo một hay nhiều quy định pháp định,
được số đông (đa số) trong cộng đồng chấp nhận, thì bản chất vấn đề sẽ
rõ: Công lý của một xã hội có tổ chức nhà nước, chính là sự công bằng
(thành văn) được xuất bản.
Trong một quốc gia cụ thể (nào đó) có nền dân chủ tiến bộ, sự công
bằng thể hiện bằng công lý, chính là một phần của cơ cấu xã hội dân chủ
tiên tiến. Đó là: "tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh”.
Trong đó hai từ "dân chủ” trong cụm từ trên ám chỉ nền chính trị dân
chủ, trong một xã hội Dân Chủ.
Nếu xét một chế độ độc tài nào đó (điển hình là chế độ độc tài Cộng
Sản), ta hỏi liệu nó công lý hay không? Tất nhiên là hoàn toàn có,
nhưng công lý (sự công bằng) của xã hội này được xây dựng theo cách áp
đặt, hoặc theo cách giả dối, ngụy biện, do một nhóm người lập nên. Họ
cũng trưng ra rằng chế độ của họ có đầy đủ "tự do, dân chủ, công bằng,
bình đẳng, văn minh” nhưng theo chuẩn mực của họ và theo cách nghĩ của
họ. Công lý của xã hội độc tài có đủ mọi chế tài pháp luật, nói là để
bảo vệ người dân. Nhưng thực ra nó là thứ công lý có lợi cho kẻ nắm độc
quyền mà thôi.
Công lý của xã hội Phong Kiến có thiếu sót (!) là không che đậy sự
thiếu công bằng, khi phân chia quyền lợi giữa vua quan và dân chúng.
Nhưng chế độ độc tài, nhất là độc tài Cộng Sản thì ranh ma hơn nhiều,
nó luôn luôn giương cao ngọn cờ công lý, đề cao sự công bằng, thậm chí
giai cấp cai trị độc tài hiện đại thời nay sẵn sàng tuyên bố làm "đầy
tớ của dân”, "công bộc của dân”. Nhưng sự thật thì đã rõ, công lý của
xã hội độc tài Cộng Sản là thứ công lý một chiều, hoàn toàn bất lợi cho
tầng lớp dân đen, chẳng khác nào công lý của thời Phong Kiến.
Như vậy bản chất của khái niệm "Công Lý” trong hai mô hình xã hội
(chế độ Dân Chủ và chế độ Độc Tài) là khác nhau, thậm chí một số khía
cạnh khác nhau hoàn toàn.
Khái niệm "Dân Chủ”. Riêng về khái niệm "Dân Chủ” thì có nhiều tác
giả, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đã dày công tìm hiểu.
Người ta kết luận: "Dân Chủ” trong chính trị, chính là sự đa nguyên về
các thành phần chính trị, thông qua yếu tố căn bản "quyền tự do về
chính trị”. "Tam quyền phân lập” đóng vai trò then chốt trong việc phân
bổ quyền lực của cơ cấu bộ máy chính trị một quốc gia. ”. Theo Abrham
Lincoln- Cựu tổng thống Hoa Kỳ- Dân chủ là một chính phủ "của dân, do
dân và vì dân”. Người ta cũng cho rằng: "Dân Chủ là sự thể chế hóa của
tự do”.
Một xã hội Dân Chủ (phạm vi quốc gia), thì phải có tự do đúng
nghĩa, công lý cũng như các định chế khác của xã hội phải được xây
dựng bởi toàn dân (do dân), nó phải phục vụ nhân dân (vì dân), do chính
nhân dân nắm quyền điều hành thông qua Quốc Hội (của dân). Xã hội đó
phải có nền chính trị dân chủ đa thành phần (đa nguyên). "Bình đẳng”
nghĩa là mọi công dân đều được hưởng quyền sống, quyền tự do như nhau,
không phân biệt giai cấp. Yếu tố văn minh là yếu tố "tự nhiên có” khi
đã có đủ: "tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng”, cộng thêm nét đẹp văn
hóa từ bản sắc của nền giáo dục.
Như vậy khái niệm "Dân Chủ” dù là được đặt trong chính trị hay trên
toàn xã hội, đều có liên quan mật thiết đến khái niệm "Công Lý”. Tuy
nhiên, vì vai trò khác nhau cho nên hai khái niệm này không bao giờ có
thể thay thế nhau được. John Rawls gọi mối quan hệ có dạng thức này là
"sự thỏa thuận chồng chéo” nó không mâu thuẫn nhau vì Công Lý (công
minh) chính là một sản phẩm tinh thần của xã hội có dân chủ. Công Lý là
một yếu tố cấu thành để bảo vệ quyền con người trong xã hội. Như vậy
chúng ta cần đặt tên cho sự công bằng trong xã hội Dân Chủ là "Công Lý
Dân Chủ”,
Nói một cách ngắn gọn: Công Lý là cấu trúc, Dân Chủ là kiến trúc,
làm nên một xã hội tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh.
Vế phương diện đấu tranh. Người ta cứ nghĩ rằng, trong chế độ Dân
Chủ thì không có chuyện đấu tranh đòi công lý, ngược lại chuyện đó vẫn
thường xảy ra rải rác trong một phạm vi hẹp nào đó. Thực ra nói rõ hơn
thì đó là chuyện "đấu tranh đòi thực thi công lý nghiêm minh”. Và trong
chế độ Dân Chủ thì chắc chắn là không có chuyện đấu tranh giành tự do
dân chủ nữa. Nhưng trong chế độ Độc Tài thì việc đấu tranh giành dân
chủ là điều phải có hoặc sẽ phải có. Vì chỉ có dân chủ đúng nghĩa thì
mới sản sinh ra công lý công minh.
Như vậy nếu đặt mục tiêu đấu tranh đòi Công Lý, thay vì đấu tranh
giành Dân Chủ thì ta mới chỉ đạt được một phần trong nhiều mục tiêu
quan trọng nhằm hướng tới một xã hôi Dân Chủ. Ấy là chưa kể đến chuyện
cái công lý mà chúng ta "đòi” ấy, nó theo mô thức nào. Nếu chúng ta đi
tìm một thứ công lý chung chung, không rõ ràng, thì có khi chúng ta lại
"lượm” được thứ công lý "giả dạng” như của chính chế độ độc tài Cộng
Sản đang áp đặt cho dân chúng.
Vì vậy muốn có Công Lý Dân Chủ, nhất thiết và trước hết là phải có
Dân Chủ, có Tự Do (tự do về chính trị, tự do báo chí, tự do lập hội, tự
do biểu tình vv…). Vì "xã hội nào thì công lý ấy” cho nên mục tiêu đấu
tranh giành dân chủ là mục tiêu tối thượng của những người đấu tranh
sống trong chế độ Độc Tài.
Có rất nhiều các cuộc cách mạng thay cũ đổi mới trên thế giới đã
thành công, ban đầu chỉ xuất phát từ những phản ứng của dân chúng đòi
hỏi những chuyện đơn giản từ chính quyền. Ví dụ như cuộc biểu tình đòi
quyền lợi của công nhân xưởng đóng tàu Lê Nin ở Ba Lan. Hay cuộc biểu
tình của người Rumania chống lại lệnh trục xuất mục sư Laszelo Tokes.
Hoặc chuyện công nhân các mỏ Đồng ở Chi Lê đình công đòi tăng lương vv…
Nhưng hầu hết những quần chúng tham gia biểu tình chống chính phủ ở
các nước kể trên đã có những hiểu biết về khái niệm Dân Chủ. Họ biết rõ
mục tiêu đấu tranh ngắn hạn là để chống chính sách bất công của nhà
đương cục. Mục tiêu dài hạn của họ là hạ bệ chế độ độc tài. Rõ ràng đây
là một sự khôn khéo trong tổ chức đấu tranh của các nhà lãnh đạo cách
mạng.
Nhưng để chuẩn bị cho cách mạng, các nhà lãnh đạo đối lập ở các nước
kể trên, trong một thời gian dài trước cách mạng, họ đều đã có những
hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ đề "Tự Do”, chủ đề "Dân Chủ”,
chủ đề "Đa Nguyên Chính Trị”vv… Chuyện tuyên bố đấu tranh đòi công lý,
hay đòi đất đai, đòi tăng lương, họ chỉ áp dụng cho một cuộc biểu tình,
hay một cuộc bãi công cụ thể…
Ở một nước như Việt Nam, với đặc thù riêng, tuy có nhiều điểm khác
Chi Lê, Ấn Độ, và các nước Cộng Sản Đông Âu (trước đây). Chuyện "đấu
tranh vận dụng” là một điều nên làm, nhưng có lẽ trước hết giống như ở
Đông Âu, người dân Việt Nam cần biết rõ đích đến cuối cùng của cuộc
cách mạng thay cũ đổi mới là gì, họ cần được chuẩn bị hành trang để sẵn
sàng nhập cuộc. Làm sao để họ tin chắc rằng: Đấu tranh giành được quyền
tạo lập một xã hội Tự Do Dân Chủ, đương nhiên họ sẽ được hưởng sự công
bằng của một nền Công Lý trong sáng, minh bạch.
Lê Nguyên Hồng