Mai Thái Lĩnh
-
- Sự thật về Thác Bản Giốc: (1 ) -
Kỳ 2 – TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM THÁC BẢN GIỐC NHƯ THẾ NÀO?
Dựa theo những tin tức do
Đảng cộng sản Việt Nam công bố qua nhiều thời kỳ, chúng ta có thể tóm
tắt quá trình xâm chiếm Thác Bản Giốc của phía Trung Quốc như sau:
Bước 1: Sửa bản đồ
"Năm 1955-1956, Việt Nam
đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng
lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới
dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc.
Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh
Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn
Pò Thoong” [18].
Đó là một đoạn được trích từ bản "bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum)
do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ
là Trung Quốc đã "sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn
30 năm, tài liệu này vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ
lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ không tốt chính là lý do
khiến cho phía Việt Nam lâu nay không dám công bố bản đồ của mình, hầu
hết các bản đồ được công bố đều là bản đồ của Trung Quốc. Hơn thế nữa,
vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: phía Việt Nam đã biết được hành
vi "sửa bản đồ” này vào thời điểm nào và tại sao mãi đến năm 1979 mới
công bố?
Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm
Năm 1976, Trung Quốc bắt
đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm mà họ đã chuẩn bị từ giữa thập niên
1950. Theo lời tố cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, "phía Trung Quốc đã
huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào
bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ
Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông
cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh
thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là
của Trung Quốc”.
Việc Trung Quốc chiếm cồn
Pò Thoong 20 năm sau khi đã "sửa bản đồ” cho thấy kế hoạch xâm chiếm
Thác Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là hành động ngẫu
nhiên.
Bước 3: Dời cột mốc 53
Ảnh 25: Đường biên giới mới với các cột mốc mới
Để tăng cường thêm bằng
chứng cho "hồ sơ pháp lý” nhằm hợp pháp hóa việc lấn chiếm, nhà cầm
quyền Trung Quốc đã dời cột mốc số 53 từ vị trí như ta đã thấy trên bản
đồ đến một vị trí khác xa hơn về phía thượng lưu nhằm "chiếm một phần
thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”, đúng như kế hoạch đã hoạch
định từ giữa thập niên 1950. "Cột mốc biết đi” này chính là căn cứ để
"hai bên đàm phán” xác định cột mốc mới 835 như chúng ta đã thấy ở phần
trên, bởi vì hai cột mốc 53 cũ và 835 mới nằm sát cạnh nhau.
Ảnh 26: So sánh hai đường biên giới mới và cũ
Thử so sánh bản đồ về
đường biên giới mới và các cột mốc mới tại vùng này (ảnh 25) với bản đồ "
Trùng Khánh 6354-IV” năm 1979 do Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980 [19].
Mặc dù địa hình của cồn Pò Thoong và khu vực lân cận cũng như vùng đất
phía tả ngạn ở hạ lưu của Thác Bản Giốc đã bị phía Trung Quốc làm biến
đổi khá nhiều nhằm che giấu việc chiếm đất, chúng ta vẫn có thể dễ dàng
nhận ra sự khác biệt giữa hai đường biên giới mới và cũ. Cột mốc số 53 đã bị dời về phía tây-nam để tạo ra cột mốc mới 835
đối diện với cồn Pò Thoong. Vì thế, đường biên giới đáng lẽ chỉ trùng
với trung tuyến của dòng sông ở hạ lưu thác lại đi ngang cồn Pò Thoong ở
phía thượng lưu và sau đó chia cắt một nửa phần thác chính cho phía
Trung Quốc.
Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng.
Việc thay đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm
787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi ngọn núi này,
mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ
không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa
cho việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc. Thế nhưng ông
Lê Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự vi phạm trắng trợn này
của "nước bạn” bằng cách khẳng định rằng "Cột mốc đang tồn tại đã được
cắm từ thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc
là ở bên phía ta”. Để củng cố cho lập luận của mình, ông ta còn biện
bạch: "Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh – Pháp,
căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là
cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả”. Không rõ "người dân địa
phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay
đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công
Phụng: "Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các
điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn
toàn được”. Vì không có một nhân vật cấp cao nào trong Đảng đính chính
lại lời phát biểu này, chúng ta có thể hiểu đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân nào [20].
Ảnh 27: Khu vực Thác Bản Giốc (ảnh chụp từ vệ tinh).
Vùng được đánh dấu là phần thác chính.
Có một điều mà các nhà
lãnh đạo Việt Nam cố tình tránh né: đó là ý nghĩa của cồn Pò Thoong và
bờ bắc của sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng. Không cần phải là chuyên
gia về quân sự, chúng ta có thể thấy rõ: với việc lấn chiếm 3 phần 4
cồn Pò Thoong và toàn bộ phần đất ở tả ngạn – từ thượng lưu cho đến hạ
lưu Thác Bản Giốc, phía Trung Quốc chẳng những có được lợi thế từ trên
cao mà còn có được một đầu cầu ngay phía trên thác (cồn Pò Thoong) để
khi cần, có thể làm bàn đạp đưa quân từ phía hạ lưu nhằm tấn công vào
bất cứ điểm nào trong vùng thung lũng dọc sông Quây Sơn (xem ảnh 28). Đó
là chưa kể đến việc lấn chiếm cao điểm Yao Tan Shan (cao độ 787 m) giúp
cho phía Trung Quốc có được một vị trí để có thể dùng pháo binh khống
chế vùng thung lũng này từ phía tây-bắc.
Ảnh 28: Toàn cảnh Thác Bản Giốc chụp từ phía Trung Quốc
Bước 4: Hợp pháp hóa hành vi lấn chiếm
Như trên đã dẫn chứng,
trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng cồn Pò Thoong kể từ năm
1976. Vì vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay quanh vấn đề: Trung
Quốc tiếp tục chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay trả lại chút ít cho
phía Việt Nam?
Tương tự như trường hợp ở
Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò
Thoong, họ trả lại cho Việt Nam 1 phần 4; thay vì lấy "phần lớn” thác
chính thì lấy một nửa thác chính. Các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm
Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ
nhún nhường, nhân nhượng để có tiếng là "ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện
được mục đích "chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò
Thoong”.
Đường biên giới mới được
hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung Quốc đã được hiện đại hóa bằng
một loạt các cột mốc dày đặc, được định vị bằng các kỹ thuật hiện đại.
Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người Việt Nam trong tương lai gặp khó
khăn hơn rất nhiều trong việc đòi lại các phần đất đã bị chiếm đóng –
nhất là khi "ván đã đóng thuyền” bởi hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan,
trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong việc đàm phán về biên giới,
phía Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ
hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra trước đó
trong bản bị vong lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên
Ảnh 29: Thác nước Bản
Giốc riêng của Việt Nam nay đã trở thành "Thác lớn xuyên – quốc gia Đức
Thiên” (Đức Thiên khóa quốc đại bộc bố). Sự mất mát này là do ai?
Không rõ khi vạch kế
hoạch chiếm một phần Thác Bản Giốc, các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Mao
Trạch Đông – Chu Ân Lai có nhắm đến mục tiêu kinh tế – du lịch hay
không? Nhưng vào đầu thế kỷ 21, vài thập niên sau khi tiến hành đường
lối cải cách do Đặng Tiểu Bình vạch ra, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đương nhiên phải nghĩ ngay đến việc kinh doanh du lịch để góp phần phát
triển kinh tế cho Tỉnh Quảng Tây, một vùng đất kinh tế còn kém phát
triển [21] nhưng lại là địa bàn chủ yếu của dân tộc Choang – dân tộc thiểu số đông nhất ở Trung Quốc hiện nay [22].
Ngay sau khi ký hiệp định
1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch đưa Thác Bản
Giốc vào khai thác du lịch chứ không chờ giải quyết trọn vẹn việc cắm
mốc ở vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu xây dựng các cơ sở du
lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ đình, nhà nổi… bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối
quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son
trát phấn cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn những yếu tố "hữu nghị, anh
em”, họ đặt cho thác nước một cái tên mới: 德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày
nay, chỉ cần lên mạng Internet, dùng một công cụ tìm kiếm nào đó như
Google hay Yahoo, chúng ta có thể thấy vô số bài viết của các du khách
nước ngoài về "Detian Falls” hay "Detian Waterfall” (Thác Đức Thiên),
được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư trên thế giới sau các thác
nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria (Zambia-Zimbabwe) và Niagara
(Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc gia lớn thứ nhất ở châu Á [23].
Ảnh 30: Blogger Điếu Cày tại Thác Bản Giốc
Khi đặt tên mới cho Thác
Bản Giốc, vẽ lại đường biên giới mới tại vùng này, các nhà lãnh đạo của
Trung Hoa cộng sản hy vọng sẽ xóa sạch các vết tích đường biên giới cũ,
để vài mươi năm nữa, các thế hệ trẻ người Việt cũng như người Hoa không
còn nhớ gì đến quá trình xâm lược của một cường quốc chuyên thi hành
chính sách đạo tặc đối với các quốc gia lân bang – nhất là các quốc gia
nhỏ bé mà ngày xưa các hoàng đế Trung Hoa vẫn thường coi là "phiên
thuộc”.
Thay lời kết:
Mặc dù sự thật đã dần dần
được bộc lộ theo thời gian, nhưng câu chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn
đã đến hồi kết thúc. Vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi cần
được giải đáp:
1) Trước hết, về căn cứ
pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ
Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài
liệu về việc Trung Quốc "sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn
Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc; [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm
thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960; [3] Tài liệu về việc
Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ
Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những
năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu
hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ
Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này
trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm
cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng
không phải là chủ trương của một cá nhân hay một phe phái nào trong Đảng
cộng sản Trung Quốc. Kế hoạch này đã được chuẩn bị ngay từ những năm
1955-56, nghĩa là vào lúc quan hệ Việt-Trung được coi là "hữu hảo”, và
được thực hiện từng bước qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần
trên. Điều này cho thấy đây là chủ trương chung của Đảng cộng sản Trung
Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không
phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị
vong lục (giác thư) năm 1979, chúng ta được biết Thác Bản Giốc và Ải Nam
Quan chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn chiếm điển hình. Nếu tính tất
cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến 1979 phía Trung Quốc (tức Trung
Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến
biên giới Việt-Trung [24].
Như vậy không thể nói là quan hệ Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn
1979-1989. Ngay từ giữa thập niên 1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng
sản Việt-Trung còn nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu,
những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh hải, ngay khi
công bố "hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã
nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ
đã ghi rõ "Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và "Nam Sa” (tức Trường Sa) thuộc lãnh
thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc
chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma
(Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước
một chính sách xâm lược nhất quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn thừa nhận quan hệ "16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và tinh thần "4 tốt”
(láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như
những nguyên tắc căn bản chi phối toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai
quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận
một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt quyền
lợi của Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã hy sinh quyền lợi của
quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thử hỏi: với tình
hình thực tế đó, làm sao nhân dân có thể tiếp tục tin tưởng vào "sự
lãnh đạo của Đảng” trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông – nơi mà
hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc chủ nghĩa của Trung Hoa cộng sản
đang lăm le tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm lược mà họ đã chuẩn bị công
phu từ hơn nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn
đường biên giới Việt-Trung đã diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày
15.3.1979, nghĩa là gần một tháng sau khi Trung Quốc tấn công trên toàn
tuyến biên giới phía Bắc, người dân mới biết được phần nào sự thật thông
qua bản "bị vong lục” do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho đến
nay, ngoài những chi tiết được công bố trong cuốn sách, nhân dân không
được biết thêm điều gì khác. Không có công trình nghiên cứu mang tính
độc lập nào để người dân có thể có thể so sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công
trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm hiểu vấn đề, nhưng những công
trình này thường bị xếp vào ngăn kéo, không được công bố rộng rãi. Vào
năm 1996, khi cộng tác với nhà xuất bản Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn
như sau: "Năm 1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất,
với ý định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói
về biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…)
Trong lần tái bản này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả
lưu lại sau khi qua đời” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về
biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối
chiếu với "sự quên lãng” được dành cho những trận chiến đẫm máu trong
suốt thập niên 1980 như trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà
Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường Sa năm 1988, v.v.
chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự nguyện của việc lược bỏ này.
Ảnh 31: Bản đồ xã Đàm Thủy do Ủy ban Biên giới Quốc gia công bố
Mãi cho đến ngày nay, hơn
một thập niên sau ngày "Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN
Việt Nam và CHND Trung Hoa” được ký kết (30-12-1999), thông tin về đường
biên giới Việt-Trung vẫn là cái gì rất mờ mịt. Mặc dù người dân có thể
truy cập vào Internet để xem hình ảnh vệ tinh của khu vực giáp giới giữa
hai quốc gia, nhưng vẫn không thể nào xác định được đường biên giới mới
một cách chính xác. Ngay cả khi truy cập vào Cổng Thông tin điện tử của
Chính phủ hay trang mạng của Ủy ban Biên giới Quốc gia, người ta cũng
chỉ có thể tìm ra một thứ "bản đồ” mù mờ và kém chính xác như tấm "sơ
đồ” xã Đàm Thủy đăng kèm theo đây (ảnh 31) [25].
Trong khi nhiều vị trí
hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở thành "chợ trời biên giới”
(ví dụ: cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự
ra đời của các "khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” thì bản đồ chi
tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là "bí mật quốc gia”, thông
tin về vùng này vẫn là thông tin một chiều, mù mờ và không có giá trị
khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm quyền vẫn tìm cách che
giấu, không muốn cho ngýời dân hiểu biết rõ ràng, cụ thể về tình hình
đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc cũ để đưa vào "viện
bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong
tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như thế, giới trí thức – nhất là
các nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ
vững chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam
thành tâm thiện ý "nhìn thẳng vào sự thật” để thực hiện một đường lối
cởi mở hơn? Tha thiết "cầu xin” nhà cầm quyền gia ân ban phát một "không
gian tự do có giới hạn” để trí thức có thể góp ý hay phản biện? Hay trí
thức phải noi gương cụ Phan Châu Trinh và các sĩ phu của Phong trào Duy
Tân hồi đầu thế kỷ trước bằng cách tự mình vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử: tự
do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là một thứ tự do bị kiểm soát,
chân lý có được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của
sự thật. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị khống
chế hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả hiệu,
một thứ khoa học hào nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm
hàm tuy bề ngoài rất "hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể trường
tồn qua thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện lợi ích
của toàn dân tộc. Bài học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng
ngự trị trong ngành sinh học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận
năm 1964 trước khi bị vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực kỳ
sinh động của thứ khoa học thừa nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị
trong một chế độ độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[18] Vấn đề biên giới..., sđd, tr. 14.
[19]
Tấm bản đồ về đường biên giới mới đã được công bố trong bài viết của
nhà văn Trần Nhương nhan đề "Bên cột mốc biên giới Bản Giốc”, Blog Trần Nhương 1-11-2011:
http://trannhuong.com/news_detail/11528/B%C3%8AN-C%E1%BB%98T M%E1%BB%90C-BI%C3%8AN-GI%E1%BB%9AI-B%E1%BA%A2N-GI%E1%BB%90C
[20]
Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng "đàm phán” đã được bổ
nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21]
Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng
Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng
thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên
Tây Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22]
Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông
nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với
người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng
Tây. Tên gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23]
Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác
nước được ghi là 60 m, thậm chí 70 m, trong khi những người Pháp đầu
tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50 m, và các sách địa
lý của nước ta xác định con số 34 m.
[24] Vấn đề biên giới.…, sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
|