Trí Lực
Cách nay gần mười sáu năm, ngày 6/11/1994, thật khó ai có thể
tưởng tượng nỗi, những người tham gia cứu trợ đồng bào đang lâm cảnh
khốn cùng bởi thiên tai lũ lụt, trở lại bị một guồng máy công an trị
khủng bố, hăm dọa. Một số bị bắt bớ tù đày, toàn bộ phẩm vật và tiền
bạc cứu trợ đều bị tịch thu. Theo sau đó, hàng loạt chiến dịch đấu tố,
vu khống, xuyên tạc, mạ lỵ trên các phương tiện truyền thông và báo chí
nhằm khỏa lấp sự ngang ngược này.
Chuyện xảy ra có một không hai dưới chế độ Cộng sản độc tài toàn
trị trên đất nước Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra ở đây, tại sao chính
quyền Cộng sản lại hành sử một cách càn bừa và thô bạo như vậy? Có lẽ
tập đoàn Hà Nội sẽ không còn một cơ hội nào khác để vin cớ bắt giam
hàng lãnh đạo và một số Tăng Ni Phật tử trung kiên, nhằm xóa sổ dứt
điểm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), Giáo hội vốn dĩ
bị chính quyền Cộng sản đang tâm đàn áp nghiệt ngã suốt bao năm qua.
1. Ngược dòng thời gian
Tháng tư đen năm 1975, Hà Nội xua quân cưỡng chiếm miền Nam Việt
Nam, trắng trợn vi phạm các hiệp định và hòa ước đã được ký kết. Hòn
ngọc Viễn Đông là miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản, dân chúng lầm
than dưới gót giày tàn bạo phi nhân, biết bao nỗi đắng cay uất hận đè
nặng lên kiếp sống người dân hai miền Nam Bắc.
Cái gọi là chính sách ”cải tạo công thương nghiệp”, nhưng thực
chất là chủ trương cướp bóc trắng trợn tài sản, đất đai, nhà cửa, ruộng
vườn... của dân lành. Đã thế không thôi, chủ nhân còn bị quân cướp bóc
bắt bớ, tra tấn, tù đày, của cải tan hoang, gia đình ly tán! Hơn thế
nữa, có đến hàng trăm nghìn viên chức hành chính, sĩ quan Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa bị xua vào cái gọi là trại ”tập trung cải tạo”, mà thực
chất là chính quyền Cộng sản rắp tâm giam cầm, đày đọa, giết lần giết
mòn, nhằm trả thù dân tộc sau cuộc chiến. Nhiều người không chịu nỗi
cảnh đói rét, bệnh tật, cộng thêm sự đắng cay lao khổ, nên đành phải bỏ
lại nắm xương tàn dưới ngôi mồ hoang lạnh trong trại lao cải này. Suốt
năm tháng dài, con cái họ bị phân biệt đối xử ở học đường, nhà cửa bị
tịch thu, đành phải ký giấy chấp nhận lên đường đi vùng kinh tế mới,
khi được hứa hẹn, người chồng người cha của họ sẽ được trả tự do, nhưng
chỉ là lời hứa suông vô vị. Thế nào gọi là vùng kinh tế mới? Nói mới
nói mẻ cho hay vậy thôi, chính đây là những vùng đồi núi hoang vu, rừng
thiêng nước độc, mìn bẩy hay bom đạn trong thời chiến có thể hãy còn
nằm im dưới lớp đất đá hoặc bụi bờ rậm rạp, chưa chừng sẽ phát nổ bất
cứ lúc nào. Người dân ở đây phải phát quang rừng rú, khai hoang, cày
xới để có đất trồng khoai sắn hoa màu, rủi ro động tới bom mìn là có
thể kết liễu mạng sống một cách oan uổng.
Ngoài ra, hơn cả triệu người dân Việt Nam đành lòng rời bỏ quê
hương làng mạc, nơi chôn nhau cắt rốn, để vượt biển ra đi tìm tự do,
lánh nạn Cộng sản. Quá hơn số phân nửa bất hạnh mất tích trên biển cả
bởi cuồng phong bão tố, hay chẳng may gặp bọn cướp biến ngang tàng,
hoặc bị chính bộ đội biên phòng Cộng sản xả súng bắn chết, chúng là
những kẻ máu lạnh, không chút tình người. Số còn lại gặp may mắn được
cứu vớt, lần lượt đặt chân đến bến bờ tự do, tạo lập cuộc sống mới ở xứ
người.
2. Chính sách tiêu diệt tôn giáo
Chế độ Cộng sản từ Liên bang Sô viết qua các nước Cộng sản vùng
Đông Âu, đến Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, đều cùng chủ trương
một chính sách tiêu diệt tôn giáo. Chủ thuyết Mác Lê cho rằng, tôn giáo
là thuốc phiện, làm mê hoặc và ru ngủ quần chúng.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội truyền thống,
được truyền thừa suốt chiều dài hơn hai nghìn năm lịch sử. Chính quyền
Cộng sản đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã và đặt Giáo hội này ra ngoài
vòng pháp luật. Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ -
Viện trưởng và Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN – quý ngài muốn thống
nhất Phật giáo hai miền Nam Bắc nhưng phải là một Giáo hội độc lập,
không thể bị xem như một trong những hội đoàn trực thuộc Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản.
Bởi thế cho nên, vào đầu thập niên 80, hai ngài bị đưa đi quản
thúc lưu đày ở quê nhà. Chính quyền Cộng sản dựng lên Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) ngày 7.11.1981, làm
công cụ chính trị phục vụ đảng và làm chia rẽ nền Phật giáo dân tộc.
Tăng tín đồ trung kiên với GHPGVNTN trở thành đối tượng thường xuyên bị
guồng máy công an trị sách nhiễu và đàn áp không chút nương tay.
Điển hình, ngày 2.11.1975, mười hai vị Tăng Ni tự thiêu tập thể
tại thiền viện Dược Sư, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ, để phản đối Ủy
ban quân quản chiếm dụng các cơ sở thuộc Giáo hội. Năm 1978, Hòa thượng
Thích Thiện Minh vô cớ bị bắt giam và đã không chịu nỗi những đòn tra
tấn dã man của bọn cai ngục đỏ, đưa đến cái chết vô cùng thê thảm trong
ngục tù ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn.
3. Mào đầu chiến dịch trấn áp
Năm 1992, khâm thừa di chúc của trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn
Hậu – Chính thư ký kiêm xử lý Viện Tăng Thống, GHPGVNTN – Hòa thượng
Thích Huyền Quang phụng mệnh trọng trách tiếp tục lèo lái con thuyền
Giáo hội, điều hành mọi Phật sự. Công cuộc phục hoạt GHPGVNTN bắt
nguồn, văn phòng lưu vong Viện Hóa Đạo là chùa Hội Phước, tỉnh Quảng
Ngãi, chính là nơi ngài đang bị quản thúc nghiêm ngặt.
Chính quyền Cộng sản Việt Nam mào đầu chiến dịch trấn áp nhắm vào
GHPGVNTN bằng tài liệu ”Tuyệt mật” mang số 106/PA15-16 của Bộ Nội vụ,
do Trương Hữu Quốc ký ngày 18.8.1992, ra lệnh cho các ngành công an mật
vụ khắp các tỉnh thành phải ”chặt đứt tay chân” khối Phật giáo Ấn
Quang, để chẳng còn phương nào hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt pháp
lý của GHPGVNTN.
Năm 1992, thầy Thích Không Tánh, Thích Trí Lực và giáo sư Nhật
Thường bị bắt. Chính quyền Cộng sản gán ép tội danh ”Phá hoại chính
sách đoàn kết”, theo điều 81, luật Hình sự. Đúng vào thời điểm người
hùng Lý Tống tung rải truyền đơn kêu gọi toàn dân đứng dậy lật đổ bạo
quyền Cộng sản, sau đó ông ấy nhảy dù và bị bắt tại Nhà Bè, Sài Gòn.
Lợi dụng sự việc này, công an điều tra tại trại giam đã tìm đủ mọi cách
vu khống chúng tôi đã cấu kết với Lý Tống nhằm lật đổ chính quyền. Thế
nhưng, họ không có chứng cớ và đã bị chúng tôi cực lực bác bỏ cáo buộc
này.
Tưởng đâu chính quyền Cộng sản có thể giam tù kết án chúng tôi một
cách dễ dàng, nhưng Hà Nội đã thất bại. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền
trên thế giới, trong đó có Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Quan sát nhân
quyền...qua sự nỗ lực vận động của ông Võ Văn Ái, Chủ tịch Ủy ban Bảo
vệ Quyền làm Người Việt Nam, chính quyền Cộng sản đành phải ngậm bồ hòn
làm ngọt để thả chúng tôi, kèm theo lệnh quản thúc vô thời hạn mà không
thông qua một tòa án nào phán quyết cả.
4. Cuộc đàn áp nước lũ
Mùa đông năm 1994, nước sông Mê kông lai láng tràn bờ. Hầu hết các
tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long ngập chìm trong thác lũ, dân
chúng lâm vào cảnh cơ cực lầm than, màn trời chiếu nước. May ra còn có
bông điên điển nổi trôi trên dòng nước bạc mênh mông, khả dĩ hái làm
thức ăn lót bụng qua cơn đói lả. Trước cảnh thương tâm đó, Hòa thượng
Thích Quảng Độ kêu gọi cứu tế đồng bào. Ngài cũng không quên gửi văn
thư thông báo cho chính quyền, về việc đoàn cứu trợ của GHPGVNTN sẽ lên
đường đến huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp ngày 6.11.1994, đây là một
trong những vùng chịu thiệt hại nặng nề.
|
|
Thế nhưng hỡi ôi! Cộng quyền nào có lương
tâm, ngày hôm ấy, hàng trăm công an điên cuồng lồng lộn, tìm đủ mọi
cách nhằm chặn đứng, bao vây, cô lập các đoàn xe của Tăng Ni Phật tử.
Toàn bộ phẩm vật cứu trợ, thức ăn, thuốc men, mùng mền... đều bị bọn
chúng tịch thu. Thầy Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực,
giáo sư Nhật Thường và Phật tử Đồng Ngọc đều bị bắt. Đầu tháng giêng
năm 1995, công an bắt nốt Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Tội danh tiếp tục gán ép để bắt bớ chúng tôi là tội ”Phá hoại
chính sách đoàn kết”, bổn cũ hai năm trước được soạn lại. Chưa đầy một
tháng sau, tập đoàn Hà Nội sáng kiến đẻ ra thêm một bổn mới 205a, ”Lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”, nhờ Quốc hội
bù nhìn thông qua cho có vẻ dân chủ để gán thêm tội. Sau khi hoàn tất
các thủ tục tố tụng, tòa án ở Sài Gòn ra quyết định xét xử, nhưng lần
lữa ba phen bốn lượt, xử rồi lại hoãn, hoãn rồi lại hoãn tiếp. Bởi lẽ,
khoảng giữa năm 1995, chính phủ Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm vận, đặt quan hệ
ngoại giao sau hai mươi năm kết thúc cuộc chiến. Hà Nội cò kè bớt một
thêm hai, nhằm kiếm chác điểm tốt nhân quyền.
Mặc dầu vậy, một phiên tòa giả trá thực thi chỉ thị ”Tuyệt mật”
106 nhắm vào GHPGVNTN, ngày 15.8.1995, tòa án ở Sài Gòn nhận lệnh chóp
bu Hà Nội đưa Hòa thượng Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh, Thích Nhật
Ban, Thích Trí Lực, giáo sư Nhật Thường và Phật tử Đồng Ngọc ra xét xử
theo luật rừng Xã hội chủ nghĩa.
Sáng sớm hôm ấy, khi rời chiếc xe tù, chúng tôi đã trông thấy Hòa
thượng Thích Quảng Độ ngồi lặng lẽ bên hàng hiên, cạnh vài gã công an
áp giải. Lời dạy ngắn gọn của ngài, cho đến nay, tôi vẫn mãi mãi khắc
ghi:
- Hôm nay, chính quyền Cộng sản xét xử chúng ta, tôi chỉ khuyên các
thầy một điều, không cần tranh luận hoặc chống án, việc làm của chúng
ta hôm nay, hãy để cho lịch sử mai hậu phán xét, thế thôi.
Ôi! Cao cả làm sao! Lời nói của bậc chân tu khả kính.
Phiên tòa ngày 15.8.1995 tại Sài Gòn
(Từ trái sang phải: Hòa thượng Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc,
Thích Trí Lực, Thích Không Tánh -
Nguồn ảnh: Lê Hiệp, phóng viên hãng thông tấn AP)
An ninh tòa án được thắt chặt, một lực
lượng hùng hậu gồm công an, cảnh sát cơ động, bộ đội được trang bị vũ
khí, lựu đạn, dùi cui, roi điện... đến tận răng. Chính quyền Cộng sản
đã chuẩn bị một cuộc trấn áp dữ dội có thể bột phát từ phía quần chúng
và Tăng Ni Phật tử nhằm phản đối phiên tòa. Đồng bào Phật tử tràn ngập
trên đường Công Lý ngay trước cổng tòa, qua đến đường Tự Do mà nay được
đổi thành: Nam kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do.
Chúng tôi không cần nhờ luật sư theo yêu cầu của tòa án, bởi chúng
tôi tự tin rằng, mình đủ khả năng biện hộ. Thế nhưng, phiên tòa đã bịt
miệng chúng tôi như sau này họ đã từng bịt miệng Linh mục Nguyễn Văn Lý
trong phiên tòa ngày 30.3.2007 tại Huế, họ cắt ngang lời chúng tôi bào
chữa. Chúng tôi dự tính trong thâm tâm, vành móng ngựa này chính là
diễn đàn dân chủ để vạch trần tội ác lọc lừa, tráo trở, phi nhân của
bạo quyền Cộng sản. Nếu Hòa thượng Thích Quảng Độ không ân cần dạy bảo
chúng tôi lúc sáng sớm, thì có lẽ sự việc đã xảy ra. Công lý ư? Luật
pháp ư? Với chế độ Cộng sản thì chỉ có luật rừng, hành sử như thời
Trung cổ.
Chúng tôi phá hoại chính sách đoàn kết? Không, chính tập đoàn toàn
trị Cộng sản Hà Nội, đứng đầu là mười mấy gã trong cái gọi là Bộ Chính
trị mới chính là những kẻ chủ mưu phá hoại sự đoàn kết của Giáo hội
chúng tôi. Chính nhà nước Cộng sản đã đang tâm đàn áp nghiệt ngã và đặt
GHPGVNTN chúng tôi ra ngoài vòng pháp luật, thay vào đó, dựng lên một
Giáo hội công cụ năm 1981. Thứ hai, chúng tôi lợi dụng quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích nhà nước? Thử hỏi, trong tình dân tộc, nghĩa đồng
bào, có ai đành đoạn ngoảnh mặt khoanh tay mà nhắm mắt làm ngơ, trước
cảnh đau thương khốn khổ của đồng bào ruột thịt đang lâm cảnh cơ hàn?
Nhớ đến cố Hòa thượng Thích Huyền Quang, một đời vì đạo vì dân, thì Hòa
thượng Thích Quảng Độ thật sự là một bậc dũng khí. Ngài tổ chức đi cứu
trợ là thể hiện lòng từ bi cứu khổ của đạo Phật. Sau này, ngày
18.7.2007, ngài cũng đã vượt qua hàng rào canh gác của công an trước
thiền viện Thanh Minh, để đến chia sẻ với dân chúng đồng bào đang gánh
chịu nỗi oan khuất. bởi nhà cửa đất đai của họ bị mất trắng vào tay
quan quyền Cộng sản tham nhũng khắp các tỉnh thị thành.
5. Rắp tâm ma mãnh
Công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN
vẫn không chùn bước. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền, cộng đồng các quốc
gia dân chủ đều lên tiếng hậu thuẫn Hòa thượng Thích Huyền Quang và
Thích Quảng Độ, đồng thời lên án chính quyền Cộng sản Việt Nam đàn áp
tôn giáo và vi phạm nhân quyền. Bởi thế, tập đoàn Cộng sản Hà Nội xoay
qua dở trò ma mãnh, rỉ tai một số nhẹ dạ cả tin, rằng họ sẽ chấp thuận
cho GHPGVNTN sinh hoạt trở lại, với điều kiện duy nhất, GHPGVNTN không
Huyền Quang, không Quảng Độ. Thủ đoạn này chẳng khác gì chính quyền
Cộng sản cho thay chiếc bình mới, nhưng rượu cũ vẫn y chang, có nghĩa
là Giáo hội vẫn chịu sự kiểm soát của đảng và nhà nước. Âm mưu ấy hoàn
toàn bị thất bại nhờ sự sáng suốt của Hòa thượng Thích Huyền Quang.
Giáo chỉ số 09 do ngài ban hành, ủy nhiệm cho Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo
tại Hoa Kỳ toàn quyền điều hành Phật sự Giáo hội, phòng khi Giáo hội mẹ
trong nước bị chính quyền Cộng sản thẳng tay đàn áp, hàng giáo phẩm
lãnh đạo Giáo hội bị bắt giam, đưa đến tình trạng mọi sinh hoạt hoàn
toàn bị tê liệt.
Nhưng tiếc thay, một số vị ở hải ngoại công khai lên tiếng thị
phi, đưa đến thảm trạng phân hóa. Nhóm ly khai ở các châu lục như châu
Âu, châu Úc, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại...cho ra đời một Giáo hội mới, sử dụng
y chang danh xưng GHPGVNTN, gọi là tiếm danh. Tiếm có nghĩa là sai
suyễn, giả mạo. chiếm đoạt. Chẳng hạn như tiếm chức, không phải chức
phận mình mà làm càn; tiếm hiệu, không phải hiệu mình đáng xưng mà
xưng; tiếm ngôn, không phải phận mình đáng nói mà nói; tiếm quyền, tiếm
vị... cũng đều như thế cả. Với sự tiếm danh này, mọi người khó phân
biệt giả chân.
Nỡ đành quên sao? Những lúc tìm đường lánh nạn Cộng sản, lênh đênh
trên Đông hải, sóng dập gió dồi, nay được đặt chân đến bến bờ tự do,
chùa ngang điện dọc, sớm mõ chiều chuông. Sao nỡ đành quên? Những năm
tháng rày đây mai đó ở quê nhà, chùa chiền bị chiếm dụng, hộ khẩu bị
cắt ngang thì biết khai báo tạm trú tạm vắng vào đâu? Sống nơi nào cũng
bị công an khu vực ngày đêm dòm ngó rình mò, chạm trán liền bị điều tra
hạch hỏi. Nay cư an sao chẳng tư nguy, lại nỡ lòng nào êm xuôi xuề xòa
với lũ phi nhân. Dẫu có được hứa hẹn gì đi chăng nữa, cũng chỉ toàn là
bánh vẽ mà thôi!
Chúng ta là những kẻ hậu học, may gặp duyên lành được hun đúc từ
những bậc thạc đức cao Tăng. Từ miền sông Hương núi Ngự, phố cổ Hội An,
Bình Định, Phú Yên, vào tận Cà Mau, Rạch Giá, không ai là không ngưỡng
vọng quý ôn Tây Thiên, Thuyền Tôn, Linh Mụ, Trúc Lâm. Linh Quang, Viên
Giác, Thập Tháp... Đạo pháp trải qua bao nỗi thăng trầm, có bao giờ quý
ngài khuất phục trước sự áp bức, kỳ thị của bạo quyền, xứng đáng cho kẻ
đời sau muôn vàn kính ngưỡng. Lời nói thẳng thường nghe chối tai, vô
phép thử hỏi, ai trong chúng ta khi trông thấy cảnh cha làm thầy con
đốt sách mà trong dạ không cảm thấy nao nao!
6. Hủy bỏ điều 4 trên Hiến pháp và thả tù chính trị là đảng Cộng sản tự mở cho mình con đường sống
Bao nhiêu năm người dân Việt lầm than khốn khổ bởi chế độ Cộng sản
hung tàn, ngần ấy năm biết bao kẻ anh hùng nặng lòng với non sông tổ
quốc bị bạo quyền tử hình hoặc giam hãm. Chúng ta hân hoan đón mừng ông
Trương Văn Sương vừa mới được ra khỏi lao ngục sau 33 năm đày đọa và
ông Nguyễn Anh Hảo trải qua 23 năm tù. Chính quyền Cộng sản hiện đang
giam giữ ông Nguyễn Hữu Cầu và Trần Văn Thiêng đã hơn ba chục năm trời,
cả hai người đang lâm trọng bệnh trong tù ngục.
Đã đến lúc chính quyền Cộng sản Việt Nam hãy trả tự do vô điều
kiện cho các tù nhân chính trị và tôn giáo đang bị giam giữ bởi những
bản án đầy phi lý bất công. Có những người bị giam giữ nhiều năm qua mà
chưa hề được đem ra ánh sáng, như trường hợp bắt giam ông Đoàn Huy
Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Văn Diên, Đoàn
Huy Tâm v.v... Ông Lê Trí Tuệ bị mật vụ Cộng sản bắt cóc ở Nam Vang
(Cam Bốt) ngày 6.5.2007 vẫn còn biệt vô âm tín, mãi đến nay chẳng ai biết số phận ông ấy sống chết ra sao!
Chúng ta hoàn toàn ủng hộ bản Kiến nghị thư đủ cả lý và tình do thầy
Thích Thiện Minh - người đã trải qua 26 năm tù - gửi chính quyền Hà Nội
ngày 1.8. 2010, kêu gọi hãy trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân
lương tâm, chính trị và tôn giáo. Đã đến lúc đảng Cộng sản Việt Nam hãy
phản tỉnh để đừng lún sâu vào vũng lầy tội ác chống lại loài người. Hãy
tỉnh thức để mạnh dạn hủy bỏ điều 4 trên Hiến Pháp (đảng Cộng sản độc
tôn đảng trị) để tiến tới một nền dân chủ đa nguyên.
Thêm nữa, Cộng sản Hà Nội vì sự khiếp nhược đê hèn, nên đã lén lút
dâng đất, bán biển cho quan thầy Bắc Kinh. Hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa đã mất trắng vào tay Trung Cộng. Nguy cơ mất nước đã gần kề,
rồi biết đâu một ngày nào đó, hơn tám mươi triệu đồng bào trong nước
bỗng dưng trở thành dân tộc thiểu số ngay chính trên dải đất hình cong
chữ S của mình! Nếu thảm cảnh xảy ra, nguyên nhân chính là đám Cộng sản
Hà Nội tham quyền cố vị, bán nước cầu vinh. Không còn phương cách nào
khác là toàn dân Việt ở trong và ngoài nước, hãy chung sức đồng lòng
đạp đổ chế độ Cộng sản, ngõ hầu cứu lấy thảm họa mất nước về tay Tàu
Cộng!
Tội đồ Hồ Chí Minh, kẻ đã mang thứ nước đỏ độc hại là chủ nghĩa
Cộng sản về đất Việt. Chủ thuyết này đã bị vứt bỏ vào sọt rác cách nay
hơn hai chục năm, ngay chính đất nước Nga sô, nơi sản sinh ra nó. Thế
mà oái oăm thay! Hiện giờ tập đoàn toàn trị Cộng sản Việt Nam lại bắt
đồng bào dân tộc của mình tiếp tục uống thứ nước đỏ vô cùng độc hại đó!
Ngày nào chế độ Cộng sản còn trên quê hương Việt Nam, thì ngày ấy hãy
còn:
Oán hờn chất ngất trời cao,
Nỗi đau dậy đất, hận gào trùng khơi!
Trí Lực
11/8/2010
|