Nguyễn Hưng Quốc
Trong các quyền tự do của con người, điều tôi quan tâm nhất là tự do
ngôn luận. Bởi, một phần, có lẽ tôi là nhà văn; phần khác, quan trọng
hơn, theo tôi, không có tự do ngôn luận, rất nhiều quyền tự do khác sẽ
trở thành vô nghĩa. Chẳng hạn, có thể nói đến tự do tư tưởng mà lại
không có tự do ngôn luận được không? Tư tưởng là cái gì cần được bộc lộ
và chia sẻ. Nghĩ ngợi sâu xa đến mấy mà không được quyền mở miệng ra nói
với ai thì tư tưởng để làm gì? Ngoài ra, không được tự do ngôn luận
liệu có thể có tự do trong văn học nghệ thuật hay trong chính trị được
hay không? Chắc chắn là không. Thiếu tự do ngôn luận, trong văn học,
người ta chỉ có thể gặp những con vẹt; trong chính trị, chỉ gặp một bầy
cừu.
Nhớ, sau năm 1975, quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam bị giới
hạn đến độ người ta không những không dám viết thật mà còn không dám nói
thật với bạn bè những điều mình nghĩ nữa. Ngay trong giới sinh viên,
nói năng bao giờ cũng đầy cảnh giác. Một câu nói đùa, với bạn bè, ngoài
hành lang, cũng có thể bị báo cáo và có thể bị mang ra kiểm điểm trong
chi đoàn hay chi bộ. Nói năng ngoài các quán cà phê hay quán nhậu lại
càng nguy hiểm. Ở đâu cũng có công an nhỏng tai lên rình rập, nghe
ngóng. Có lần, vào một tiệm hớt tóc ở Phú Nhuận, tôi thấy ai đó viết hai
câu thơ trên bức vách: "Ở đây tai vách mạch rừng / Nói năng cẩn thận,
xin đừng ba hoa”.
Nghe nói tình hình ở miền Nam sau 1975, dù sao,
cũng còn đỡ hơn ở miền Bắc sau 1954: Thời ấy, người ta không những cẩn
thận lời ăn tiếng nói với người lạ, hàng xóm, đồng nghiệp hay với bạn bè
mà còn cả với vợ con nữa. Ngay cả vợ cũng có thể tố cáo chồng; con cái
cũng có thể tố cáo bố mẹ. Chỉ vì một câu nói không đúng lập trường nào
đó.
Sau phong trào đổi mới, tình hình khá hơn nhiều. Lần đầu tiên
về lại Việt Nam năm 1996, tôi ngạc nhiên thấy bạn bè mình, cả bạn cũ
lẫn bạn mới, vừa khề khà uống bia vừa cười cợt chế độ một cách hể hả.
Khác hẳn với ngày trước, lúc tôi chưa vượt biên. Nhưng sự thay đổi chỉ
dừng lại ở đó. Ở các quán nhậu. Giữa bạn bè. Cái gọi là tự do ngôn luận
ấy chỉ giới hạn ở một hình thức: xuất bản miệng. Nói thì được còn viết
thì không. Đó là thứ luật lệ bất thành văn mà hầu như ai cũng biết. Và
hầu hết đều dừng lại ở cái giới hạn ấy. Tức tối điều gì ư? Thì cứ chửi
toáng lên. Bất mãn điều gì ư? Thì cứ phê bình, chỉ trích thả cửa. Nhưng
đừng viết. Nếu viết thì đừng công bố ở đâu cả. Công bố là bị bắt, hay ít
nhất, bị trù dập.
Một thứ tự do như vậy không thể gọi được là tự
do. Tự do ngôn luận thực sự không thể giới hạn trong hình thức phát
biểu: Nó phải bao gồm cả nói, từ nói ở chỗ riêng tư đến những chỗ công
cộng, đến viết và công bố, từ trên sách báo đến trên mạng. Tự do ngôn
luận thực sự không thể bị giới hạn trong phạm vi đề tài: Nó phải bao gồm
quyền tự do phát ngôn về mọi vấn đề, kể cả về chính trị. Tự do ngôn
luận thực sự cũng không thể bị giới hạn ở mức độ: Nó phải dung hợp cả sự
phê phán và đả kích. Tự do ngôn luận cũng không thể bị giới hạn ở hoạt
động: Nó phải bao gồm cả ba yếu tố, từ việc tìm kiếm đến việc tiếp nhận
và tham gia phát tán thông tin cũng như ý tưởng.
Với cách nhìn
như thế, không ai có thể nói là Việt Nam đã có tự do ngôn luận. Người
Việt Nam biết rõ điều đó. Cả thế giới cũng biết rõ điều đó. Kết quả các
cuộc điều tra về nhân quyền trên thế giới đều ghi nhận: Việt Nam không
hề có tự do ngôn luận.
Báo chí và xuất bản thì đều nằm hết trong
tay nhà nước. Nhà nước kiểm soát từ A đến Z. Internet cũng bị kiểm soát.
Mới đây, báo cáo của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans
Frontières) nêu tên Việt Nam trong danh sách "những kẻ thù của
internet”. Những nước đứng đầu gồm có: Trung Quốc, Việt Nam, Iran, Bắc
Hàn, Cuba, Miến Điện, Saudi Arabia, v.v... Trong danh sách ấy, Việt Nam
"được” đứng vào vị trí thứ nhì với 17 người bị bắt vì những phát ngôn
đòi hỏi tự do trên internet, chỉ đứng sau Trung Quốc nơi có 72 người bị
bắt, và trên Iran với 13 người.
Ở đây có hai điều cần ghi nhận:
Thứ
nhất, bên cạnh việc bắt bớ, hành động chà đạp lên quyền tự do ngôn luận
còn được biểu hiện qua nhiều hình thức khác nữa, chẳng hạn, uy hiếp
hoặc sa thải các phóng viên và blogger, hay dựng tường lửa, hay sai
hacker đánh sập các trang mạng độc lập.
Thứ hai, ở các nước khác,
người ta thường bị bắt vì tuyên truyền chống nhà nước hoặc đòi hỏi tự
do và dân chủ, những điều mà nhà nước độc tài không thể nào chấp nhận
được. Ở Việt thì khác. Trong số các phóng viên hoặc blogger bị bắt bớ
hoặc uy hiếp, cũng có người lên tiếng đòi hỏi đa đảng, nhưng phần lớn
đều lên tiếng vì hai mục tiêu khác: chống Trung Quốc và chống tham
nhũng. Nói cách khác, ở Việt Nam, chống Trung Quốc và chống tham nhũng
đều là những cái tội.
Nói đến "tội” chống Trung Quốc, tự nhiên
sực nhớ chuyện ngày xưa. Cuối thập niên 1850, Pháp chiếm ba tỉnh miền
Đông Nam Bộ. Theo lời khuyên của một số tướng lãnh, "hòa thì mất ít,
đánh thì mất nhiều”, Tự Đức ra lệnh tướng sĩ rút khỏi vùng đất Pháp
chiếm đóng, hơn nữa, không được chống phá lại họ. Ai tiếp tục chống Pháp
thì bị xem là phạm tội "phản nghịch”. Thời ấy, tương truyền Phan Văn
Trị có hai câu thơ thật hay:
"Đứng lại làm chi cho mất công
Vừa
đi vừa đái vẽ nên rồng"
À, mà các bạn có thấy là gần đây, có
nhiều nhà thơ đái trong thơ lắm không?
"Điềm” gì vậy?
|