Đại tá Bùi Văn Bồng
-
Vấn đề an ninh cho Biển Đông không phải
đến bây giờ mới dặt ra gay gắt. Nhìn lại, từ gần 40 năm qua, Biển Đông
vẫn không ngừng dậy sóng – những cơn sóng từ bản chất đã mang tính cố
hữu, nhiều khi bất thường và xô bồ về tranh chấp chủ quyền lãnh hải,
thềm lục địa.
Tính từ đầu những năm 1990, sau vụ Trung
Quốc (TQ) tấn công Trường Sa, tình hình Biển Đông bắt đầu căng thẳng
trên một bình diện khác thường, ngày càng nhiều diễn biến phức tạp hơn.
Các nước ASEAN đưa ra yêu cầu cần có biện pháp hữu hiệu để sớm ngăn chặn
tình trạng an ninh bất ổn ở vùng này. Phải mất 10 năm khởi động, không
ít tranh cãi, vận động, mãi đến ngày 4-11-2002, "Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông” (DOC) mới được Trung Quốc ký với các nước ASEAN.
Hội Nghị ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Penh (CPC)
Nhưng, thật trớ trêu trong suốt 10
năm qua, việc thực thi DOC xem ra vẫn không đem lại hiệu quả gì, mà trái
lại, tình hình Biển Đông ngày càng căng thẳng hơn, chủ yếu vẫn do phía TQ gây ra cho các nước trong khu vực, nhất là 4 nước có lãnh hải tiếp giáp với Trung Quốc, trong đó Việt Nam là ở gần và trực tiếp nhất.
Vì "DOC” không được thực thi
nghiêm chỉnh, lại nhiều vi phạm ở mức độ trầm trọng, từ đó phát sinh
thêm nhu cầu phải có "COC” (Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông), như một
sự bổ trợ, đốc thúc, để muốn có một ràng buộc pháp lý các bên liên quan
nhằm thực hiện "DOC” tốt hơn. Nhưng, chỉ tính trong 20 năm qua, từ khi
khởi động theo nhu cầu thực tế đặt ra cấp bách, trước động cơ (cả âm mưu) và thái độ của Trung Quốc trong ứng xử, giải quyết vấn đề Biển Đông, cam kết "DOC”
hầu như vẫn chỉ nằm trên giấy. Và 10 năm, tuy "DOC” đã được tuyên bố
khá hùng hồn, nhưng nay lại phải thêm "COC” liệu có mang đưa đến kết quả gì? Vậy là,
do mức độ phức tạp ngày càng trầm trọng khó gỡ trên Biển Đông, sau
"DOC” nay cần phải thêm "COC”, rồi còn phải những gì nữa mới đem lại
bình đẳng, yên lành cho Biển Đông?
Trở lại lịch sử một chút để nhìn
vào bản chất vấn đề: Từ nhiều đời nay TQ vẫn chưa bao giờ từ bỏ ý định
nhòm ngó cả vùng Đông Nam Á (ĐNÁ) bằng ánh mắt thèm thuồng của tham vọng
bành trướng, bá quyền, mộng bá chủ thiên hạ. Qua nhiều đời "thiên mệnh
triều chính”, cả nghìn năm xua quân đánh chiếm Việt Nam, dùng sức đông
người và mọi thủ đoạn xảo quyệt xâm lược, áp đặt cai trị, TQ đã đặt dân
tộc VN vào cảnh nghìn năm Bắc thuộc cơ nhục. TQ chỉ mong thu phục VN về
lãnh thổ, như một tỉnh, một vùng dân tộc thiểu số phía Nam
của TQ. Nhưng, lịch sử đã chứng minh, ý đồ nối đời này của TQ, dù đã
"Nam chinh Bắc phạt” nhiều nơi, nhưng lại bị vấp ngay phải một dân tộc
có ý chí mạnh mẽ do lòng yêu nước và chí anh hùng. Cả nghìn năm, với
trăm phương nghìn kế, nhưng TQ vẫn không thể khuất phục được mảnh đất ở
Đông Dương bé nhỏ này. Đến tận thế kỷ thứ 18-19, đời nhà Thanh (Thanh
triều, đế quốc Mãn Châu, 1616-1912), TQ vẫn không từ bỏ dã tâm biến VN
thành thuộc địa của TQ. Nhà Thanh bị Nguyễn Huệ đánh tơi bời, thua đau
đớn vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789. Bị thất bại thảm hại và nhục nhã, giặc
Thanh xâm lược càng tức tối cực độ, càng nuôi lớn tham vọng, rắp tâm trở
lại xâm lược VN lần thứ 2.
Nhưng ở vào thời đó, các nước đế
quốc, tư bản phương Tây mở rộng thị trường và mưu chiếm thuộc địa sang
Châu Á. Dù không muốn, nhưng vua Thanh buộc phải tiếp đón các thương
gia, rồi chuyên gia người Anh. Từ ấy, nhà Thanh phải đối phó với Anh
quốc, rồi Nga, Pháp, Nhật, dẫn tới suy yếu dần, mất cơ hội tấn công xâm
lược VN. Cuối cùng, đang giữa lúc suy vong, do Cách mạng Tân Hợi mà
Thanh triều bị sụp đổ với sự thoái vị của vua Phổ Nghi, kết thúc
gần 300 năm tồn tại đế Đại Mãn Thanh nổi tiếng hung hãn, hùng khí một
phương trời. Năm nay vừa đúng 100 năm ngày sụp đổ của vương triều nhà
Thanh, thì lại xảy ra nhiều sự kiện, điểm nóng ở khu vực làm dậy sóng Biển Đông.
Từ đầu thế kỷ thứ 20, do bối
cảnh của TQ và do xu thế cách mạng thực dân hóa trên toàn cầu trỗi lên
mạnh mẽ, VN lại bị Pháp xâm chiếm, nên cho dù vẫn cháy bỏng ý đồ thôn
tính VN, làm
bàn đạp chiếm Đông Dương và các nước ĐNA, thực hiện mưu đồ bành trướng
phương Nam, nhà cầm quyền TQ cũng buộc phải gác lại vì bản thân TQ đang
bị các nước siêu cường xâu xé. Cho đến năm 1955, sau khi bị thất bại
thảm hại ở Điện Biên Phủ, quân Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định
Genève. Ngay sau đó, không bỏ lỡ cơ hội, năm 1956, TQ cho xua quân chiếm
một số đảo phía Đông
quần đảo Hoàng Sa. Nhưng ngay sau đó, Mỹ lại nhảy vào can thiệp Đông
Dương, dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam VN
rồi đưa quân sang xâm lược VN. Tình thế ấy khiến TQ bị chưng hửng, không
thể lấn sâu tham vọng, ý đồ của mình.
Khi còn đế quốc Mỹ ở miền Nam VN,
dù TQ có muốn Biển Đông đến mấy cũng không thực hiện được ý đồ gì vì hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới sự quản lý của chính quyền miền
Nam, được Mỹ bảo trợ. Khi quân đội Mỹ bắt đầu rút khỏi VN tháng 1-1973
theo Hiệp định Paris, thì tháng 5 và tháng 7 năm đó, TQ đã nhiều lần cho
tàu ngư chính và cả tàu hải quân trinh thám, thăm dò vùng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và chúng đã bị hải quân Việt Nam Cộng hòa xua
đuổi. Từ tháng 1-1974, lợi dụng khi VN đang dồn sức chuẩn bị Chiến dịch
tổng tấn công đánh cho ngụy nhào để giải phóng dân tộc, TQ đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam vừa giành được thắng lợi thống nhất đất
nước, TQ đã dựng lên chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia, rồi cho Khmer Đỏ đánh
chiếm đảo Thổ Chú phía biển
Tây Nam của VN, đưa bắt hết hơn 500 người dân đảo Thổ Chu về đảo Cô
Tang giết sạch. Rồi chế độ diệt chủng Polpot bị VN dẹp tan.
Tàu đánh cá của ngư dân VN bị đánh đắm
Cay cú do bị VN làm
cho thất bại một âm mưu chiến lược lớn muốn diệt chủng người Khmer rồi
chiếm Campuchia đưa người TQ vào thay thế, TQ đã nổi cơn hùng hổ "dạy
cho VN một bài học” gây ra cuộc chiến xâm lược VN trên toàn tuyến biên
giới phía Bắc,
một cuộc chiến tranh ngắn, nhưng khốc liệt và đầy tai tiếng về Chủ
nghĩa xã hội (!?). Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với
nền kinh tế VN và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Sau khi bị thua ở
biên giới phía Bắc, TQ quay ra chiếm các đảo.
Trong những tháng đầu năm 1988, Hải quân Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu vực quần
đao Trường Sa, chiếm giữ Đá Chữ Thập (31-1), Châu Viên (18-2), Ga Ven
(26-2), Huy Gơ (28-2), Xu Bi (23-3). Hải quân Việt Nam đưa vũ khí, khí
tài ra đóng giữ tại các đảo Đá Tiên Nữ, Đá Lá, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan,
Núi Le, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng
của hải quân Trung Quốc ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông kinh tuyến 1150.
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường
Sa, Hải quân Việt Nam xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để
hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế của Việt
Nam cho các căn cứ tại quần đảo Trường Sa. Vì vậy, thường vụ Đảng ủy
Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao…
Cũng từ tháng 1-1988,
TQ mở chiến dịch đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa thuộc chủ quyền của
VN, xây căn cứ trên đảo Chữ Thập, rồi từ đó liên tục có rất nhiều hoạt
động quấy rối và xâm phạm chủ quyền lãnh hải của VN và các nước khác
trong khu vực.
Từ khi bị hải quân TQ chiếm đóng trái phép và xây dựng căn cứ ở Bãi Cỏ
Rong thuộc quần đảo Trường Sa vào tháng 3-1995, Philippines đã nâng độ
cảnh giác với TQ lên mức cao. Nhiều nước khác cũng buộc phải thay đổi
cách nhìn về TQ. Trước những nguy cơ uy hiếp và xung đột bằng vũ lực thế nên, năm 1991, các nước ĐNÁ mới đặt ra yêu cầu cần có cam kết "DOC”, khởi động suốt 10 năm mãi đến năm 2002, do sức ép từ nhiều phía, TQ mới chịu ký Tuyên bố cam kết "DOC” mặc dù đây chỉ là một văn kiện không có tính ràng buộc về pháp lý.
Tháng 11-2002, nhân dịp Hội
nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 nhóm họp tại CPC, Trung Quốc cùng các
bên trong khối ASEAN ra "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”
(viết tắt là DOC). Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Đông và được coi là bước đột phá quan trọng trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Việc ra tuyên bố "DOC” là kết quả nỗ lực của các nước ASEAN, đặc biệt là của bốn nước liên quan trực tiếp tranh chấp ở quần đảo Trường Sa trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Ngư Chính 311 của TQ
Tính từ năm 2002 đến nay, mặc dù đã ký cam kết DOC,
nhưng trong 10 năm qua, theo thống kê, TQ đã có gần 200 lượt tàu đánh
cá, tàu ngư chính và cả tàu hải quân xâm phạm chủ quyền lãnh hải của VN.
Tháng 12-2004, TQ bắt 80 ngư dân VN đang đánh cá trên vùng biển Bắc Bộ
thuộc lãnh hải VN. Trắng trợn và liều lĩnh hơn, ngày 8-1-2005, hai tàu
tuần dương Trung Quốc bao vây và bắn xối xả vào các tàu đánh cá Việt Nam làm
9 ngư dân Thanh Hóa bị thiệt mạng, 7 người bị thương và 8 người khác bị
TQ bắt. Và liên tục năm nào TQ cũng cho tàu các loại xâm phạm vùng lãnh
hải VN và các nước có vùng biển tiếp giáp, với hành động ngày càng công
khai, trắng trợn hơn, không hề tôn trọng DOC như đã cam kết.
Theo điều 1 trong Tuyên bố cam kết DOC, tháng 11-2002: "Các bên tái khẳng định cam kết của
mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp
Quốc, Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác khu vực Đông
Nam Á (TAC), với năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc)
và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế
được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với nhà nước”. Điều 3 trong cam kết DOC nêu rõ: "Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của
mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời Biển
Nam Trung Hoa như đã được minh thị bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ
biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển năm 1982”. Trong điều 5, quy định cam kết rõ
hơn về ứng xử và hành động: "Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự
chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang
tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến
hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh
sống…”.
Có thể nói rằng dù cho Tuyên bố cam kết DOC đã quy định rõ như vậy, nhưng ngay sau khi đã ký thì chính TQ đã không hề quan tâm thực hiện đúng cam kết,
mà còn tiếp tục gây ra nhiều sự bất ổn định cho vùng biển này như đã
nêu trên. Vì thế, nay các nước ASEAN lại phải bàn nhau, xét thấy cần sớm
có một "COC”, tức là phải thêm những ràng buộc pháp lý để buộc TQ và các nước trong khu vực phải
thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn đối với "DOC”. Nhưng, kể cả sau này
TQ có ký "COC” đi chăng nữa, liệu có gì để "ràng buộc” được con rồng
đang cố vũng vẫy để khuynh loát trên biển Đông hay không?
Ngay như dự thảo cho nội dung "COC” do
báo Jakarta Post (Indonesia) dẫn ra 8 nội dung chính của văn bản dự kiến
này, ai cũng thấy câu chữ còn chung chung, trùng lặp và thiếu tính pháp
lý khó mà "ràng buộc” được ai. Thí dụ như các nội dung sau:
- Việc thực hiện "DOC” cần tiến hành từng bước phù hợp với các điều khoản trong "DOC”. Chỗ này có phải chăng là ý
của TQ cố trì kéo và phủ nhận "DOC” hay không? Đã có "DOC” nhưng 10 năm
nay không thực hiện, nay tại sao lại "tiến hành từng bước” như một cách
bàn lùi? Các bên tham gia "DOC” sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham
vấn theo tinh thần của "DOC” là gì ?.
- Trong nội dung dự thảo "COC” còn thể hiện: Việc tiến hành các hoạt
động hoặc các dự án đã được quy định trong "DOC” cần được xác định rõ
ràng.
- Việc tham gia các hoạt
động hoặc các dự án cần được thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Hai chữ "tự
nguyện” này liệu có phải do TQ xen được ý vào nội dung cần dự thảo
"COC”? Rồi tiếp theo là Các hoạt động ban đầu được cam kết trong phạm vi "DOC” cần phải là các
biện pháp "xây dựng lòng tin”. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc
các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên
liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC. Trong quá trình thực hiện các
dự án đã được thỏa thuận, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các
chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối
với các dự án liên quan. Tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án
đã được thỏa thuận trong "DOC” sẽ được thông báo hàng năm cho Hội nghị
Ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc…
Theo ông Vũ Mão, nội dung chính
cho "COC” như vậy thì với những gì đạt được còn quá nhỏ so với
mong đợi và nhu cầu cần thiết nhất. Nếu như đây là một
dạng "thông tư hướng dẫn” dưới luật thì không hiểu ASEAN và Trung Quốc
sẽ phải vận dụng ra sao để triển khai "DOC” trên thực tế, giải quyết
được xung độ mỗi ngày đang ngày một gia tăng giữa các bên tranh chấp
(TQ-Philippines, VN…) ở Biển Đông, khi những điểm đạt được rất mơ hồ và
không đầy đủ. Rõ ràng là vẫn chưa giải quyết những bất đồng vẫn còn đó, chưa được giải quyết một cách cơ bản.
Nếu nội dung chính của
"COC” như vậy, chưa nói đến một cơ chế giải quyết xung đột, thậm chí,
ngay cả quy định về phạm vi hiệu lực của "DOC” vẫn còn bị để ngỏ. Tóm
lại, cả "DOC” và những nội dung như thế này của COC nêu trên xem ra vẫn
không đủ hiệu lực để ngăn ngừa các hành vi cố tình gây rắc rối làm
phức tạp, căng thẳng tình hình của các bên trên Biển Đông vốn đã nhiều
rất phức tạp và ngày càng phát sinh nhiều tình huống khó lường trước do chủ trương đẩy mạnh việc khẳng định lãnh hải của TQ là theo hình chữ U vô căn cứ. Nếu như "DOC”, dù không đạt được yêu cầu của tính ràng buộc pháp lý, nhưng là một cam kết chính
trị của các quốc gia liên quan, thì văn bản này, về thực chất, sẽ chỉ
có tác dụng để viện dẫn khi cần thiết, nhằm chứng minh khả năng tự đối
mặt và giải quyết vấn đề của mình, cho giữa Trung Quốc và ASEAN. Mà
những viện đãn ấy cùng không đem lại gì đáng kể. Dù vậy, hành trình từ
"DOC” đến "COC” có vẻ được xem là một nỗ lực mới theo tình thế của các nước ASEAN, còn hiệu quả thực chất của nó hẳn còn xa tít tắp.
Hải quân Trung Quốc bắt ngư dân Việt nam
Theo Hãng tin Reuters, ngay sau hôm
vừa bế mạc Hội nghị ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Pênh, trên Đài phát
thanh Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Cương, phó giám đốc sở Du lịch tỉnh Hải
Nam nói: "Kế hoạch tổng thể đang được soạn thảo và một kế hoạch cụ thể
cũng đang được tiến hành; chúng tôi hy vọng là trong
năm nay, chúng tôi có thể mở du lịch đường biển tới quần đảo Hoàng Sa”.
Phát biểu trên đây của ông Đặng đã được nhiều cơ quan truyền thông của
Trung Quốc đăng lại, kể cả Trung Quốc Tân Văn Xã, hãng thông tấn lớn thứ
hai, sau Tân Hoa Xã. Báo chí Trung Quốc cho biết là trong
tháng Ba vừa qua, một quan chức cấp cao, ông Vương Chí Phát, thứ
trưởng, phó chủ nhiệm Cơ quan Du lịch Quốc gia Trung Quốc cũng đã tuyên
bố: "Phát triển du lịch quần đảo Hoàng Sa sẽ giúp chúng ta bảo vệ biên
giới và chứng tỏ sự hiện hữu về chủ quyền của chúng ta ở đây”.
Trước thềm
Hội nghị Bác Ngao ở Hải Nam, Phó thủ tướng Việt Nam Hoàng Trung Hải đã
gặp phó thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Một lần nữa Hà Nội yêu cầu
Bắc Kinh trả tự do "ngay lập tức và vô điều kiện” cho 21 ngư dân cùng
hai tàu cá Việt Nam hiện đang bị phía Trung
Quốc bắt giữ. Hà Nội cũng đòi Bắc Kinh hủy cuộc đua thuyền tại Hoàng
Sa. Nhưng TQ vẫn chưa có một thái độ nào về những lời yêu cầu chính dáng
của VN.
Vì vậy, suy rộng ra cho thấy rằng, trước những
thái độ và hành động đó của TQ, dù có "DOC”, "COC” hay gì đi chăng nữa
thì cũng khó ổn định được tình hình liên tục bất ổn và nhiều nguy cơ mất
an ninh khu vực Biển Đông. Nếu như các nước ASEAN không đoàn kết,
không có một lập trường chung, TQ có thể sẽ dùng các thế mạnh của mình,
với chủ đích chỉ chấp nhận gặp gỡ, đối thoại song phương và dùng chiến
thuật "bẻ từng chiếc đũa” nhằm đạt được mục đích phân hóa, xé lẻ các
nước ĐNA, "chia để trị” bằng sức mạnh mềm hoặc vũ lực, món truyền thống
từ lâu đời của TQ.
Và nếu như lần này, sau khi đã cho
tiền và hứa tăng cường đầu tư vào CPC, TQ đã "dắt mũi” được đương kim
Chủ tịch ASEAN không đưa vấn đề Biển Đông ra Hội nghị ASEAN-20. Nay nếu
như mong muốn của TQ thành hiện thực, với sự tìm mọi lý do quanh co,
chần chừ, đặt điều kiện, "Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông” (COC) cũng
sẽ chẳng tiến bộ hơn được bao nhiêu so với "Tuyên bố cam kết ứng xử trên biển Đông” (DOC) hiện tại.
Dư luận cho rằng, khi đưa ra bàn thảo để ra được COC, chắc chắn
TQ sẽ tránh các vấn đề, các câu chữ mang tính "quy tắc”, có giá trị
ràng buộc, và có lẽ vì thế mà COC cũng bị tắc luôn (!?). Tranh chấp trên
biển Đông vẫn sẽ tiếp tục căng thẳng, hòa bình trên biển Đông vẫn sẽ
mong manh. Do vậy, các nước ASEAN cần phải cùng nhau hành động. Một thực
tế cần nhận rõ và luôn luôn thường trực trong ý thức cùng như hành động
của các nước ĐNÁ rằng: Chừng nào TQ chưa thu phục được các nước ĐNA về
dưới tầm ảnh hưởng và lệ thuộc vào mình như ý đồ từ lâu đời nay, thì các
nước ĐNA chưa thể yên ổn được với TQ. Với thói quen nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo, nói ngoài miệng nhưng trong lòng rắp tâm làm
trái, dù đã ký nhưng không thực hiện, lại thiếu trung thực, thẳng thắn,
không cởi mở như TQ thì mọi nỗ lực cách nào cũng không thể ràng buộc
được pháp lý với TQ là điều quá bi quan ?.
Các đại biểu tham dự phiên khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 20
Ngoài ra, việc tìm kiếm một tiếng nói chung cũng là một cơ hội để thúc đẩy sự tương hỗ và đoàn kết giữa các nước ASEAN. Hơn thế nữa nếu các nước trong khu vực ĐNA không đoàn kết lại, TQ sẽ gây áp lực hay tranh thủ các nước ASEAN khác đứng ngoài tranh chấp. Các nước này có thể không đứng về phía các
nước ASEAN khác. Để khắc phục được điều này, các nước trong tranh chấp
cần tính đến những bước đi chiến lược, vừa khôn khéo những cũng cần kiên
quyết trong đối ngoại, đối thoại. Và tốt nhất là việc
soạn thảo đi đến thống nhất chất lượng nội dung cũng như đàm phán "COC”
nên được đưa ra khuôn khổ Thượng đỉnh Đông Á, thay vì chỉ trong khuôn
khổ ASEAN với Trung Quốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
nói: "Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử
khẳng định rằng, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất từ thế kỷ thứ 17. Chúng ta đã làm chủ khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần
đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ lịch
sử pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng, chúng ta chủ trương đàm phán,
giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp
hòa bình. Chủ trương của chúng ta phù hợp với hiến chương của Liên Hợp
Quốc; Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982 và Tuyên bố cam kết DOC về ứng xử các bên trên Biển Đông”.
4/2012
Bùi Văn Bồng
Theo: Blog NLG
|