Suốt hai thập niên qua, đảng và nhà nước CSVN hay ca
tụng "công lao đổi mới” của họ. Sau những ngày đầu kêu gào "Đổi mới hay
là chết" ở cuối thập niên 1980 và đặc biệt sau khi thoát những giây
phút hiểm nghèo của ngọn gió Đông Âu nhờ loại bỏ hầu hết cơ chế kinh tế
XHCN, lãnh đạo Đảng bắt đầu gắn thêm đủ loại hoa lá cành.
Cả một hệ thống 600 tờ báo, hàng trăm đài phát thanh,
truyền hình, hàng chục triệu cuốn sách, hàng triệu những cái loa phường
ra rả rỉ riết từ sáng đến tối, và hàng trăm ngàn những lớp học, những
hội nghị từ cấp trung ương đến làng xã, đâu đâu họ cũng nhắc đi nhắc
lại: "Đảng ta là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất
nước”. Lâu dần thành quen, mọi người mặc nhiên chấp nhận nó, sử dụng nó
mà không còn cần đặt dấu hỏi. Có người còn dùng nó như một dấu mốc để
phân định lịch sử Việt Nam hiện đại, như "thời trước Đổi mới" để nói
đến những việc trước năm 1986 hoặc "từ khi Đổi mới trở về sau này", tức
những việc từ 1986 đến nay.
Có thật lãnh đạo đảng CSVN "Đổi Mới" vì đất nước không?
Có lẽ hiện thực đất nước từ năm 1986 đến nay đã đủ để trả lời câu hỏi
này.
Những đổi thay dẫn đến "Đổi Mới”
Năm 1985, sau cái chết liên tiếp của 3 Tổng Bí Thư cao
tuổi Brezhnev, Andropov, và Chernenko trong vòng 4 năm, đảng Cộng Sản
Liên Sô gấp rút bầu một lãnh tụ trẻ trung lên thay thế. Đó là Mikhail
Gorbachev. Ông Gorbachev lập tức phải đối diện với một kho dự trữ vàng
trống rỗng sau gần 50 năm Liên Sô nuôi dưỡng hầu hết các phong trào và
chế độ cộng sản ở khắp 5 châu. Nền kinh tế Liên Sô cũng suy kiệt vì
lòng dân đã quá chán nản với những hứa hẹn và đuối sức trong các vòng
kiểm soát xã hội ngặt nghèo. Ông Gorbachev không còn chọn lựa nào khác
ngoài việc khởi động chính sách Glasnost để cởi trói xã hội và
Perestroika để tái phối trí các ưu tiên quốc gia. Trong hệ ưu tiên này,
hầu hết các viện trợ cho các phong trào và chế độ cộng sản đàn em buộc
phải chấm dứt. Quyết định này gieo chấn động trên toàn thế giới, kể cả
chế độ CSVN.
Vào khoảng thời gian này, ngôi nhà XHCN Việt Nam cũng
đang kiệt quệ sau 10 năm san bằng giai cấp và phá hủy toàn bộ hệ thống
hạ tầng kinh tế tại miền Nam. Nhiều vùng trên cả nước lâm vào nạn đói
và chết đói. Có nơi kéo dài mấy năm liền. Việc Hà Nội đổ sức của sức
người vào tham vọng chiếm đóng đất nước Campuchia sau khi nhân danh
đánh đuổi Pol Pot và những năm tháng bị thế giới phong tỏa vì hành động
đó càng đẩy nền kinh tế Việt Nam xuống đáy vực thẳm. Nguồn tài trợ từ
Liên Sô của những năm đầu thập niên 1980 càng là chỗ dựa sinh tử của
đảng CSVN.
Nhiều loại "Đổi Mới"
Trước quyết định cắt viện trợ bất ngờ của Gorbachev,
lãnh đạo Hà Nội không có nhiều chọn lựa trong cách đối phó. Tổng Bí Thư
Lê Duẫn đã chính thức cắt cầu với Trung Quốc bằng việc xâm chiếm
Campuchia và kéo theo cuộc chiến dọc theo biên giới Hoa Việt từ năm
1979. Nay Hà Nội không dám công khai bất đồng hay cãi lại quan thầy duy
nhất còn lại là Liên Sô. Và thế là đất nước phải đi vào giai đoạn "Đổi
Mới Chờ Thời" — nghĩa là chỉ đổi mới cho có hình thức mà thôi và chờ
ngày Gorbachev bị hạ bệ để rồi đâu lại hoàn đấy. Cũng như thời thập
niên 1960 khi Tổng Bí Thư Krushchev đề nghị chung sống hòa bình với thế
giới tư bản và cùng thi đua phát triển. Sau khi Krushchev bị hạ bệ tại
Liên Sô, một số cán bộ cao và trung cấp tại Việt Nam cũng bị khép vào
tội theo chủ nghĩa "Xét Lại" và bị đày ải suốt mấy chục năm liền. Tội
của họ là tưởng đã có "Đổi Mới Thật" nên ra mặt ủng hộ.
Trở lại với chính sách "Đổi Mới Chờ Thời" của thời
1986, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu nói đến "Cởi Trói Văn Nghệ
Sĩ" nhưng vẫn cấm báo tư nhân; cho nông dân một số vùng được mượn đất
tự canh tác nhưng không cho làm chủ đất; cho một số hãng xưởng ngoại
quốc vào thăm dò thị trường nhưng cố tình làm cho họ nản lòng rút ra;
v.v...
Chính sách lấp lửng này kéo dài đến đầu thập niên 1990
khi Gorbachev phải ra đi. Nhưng ông không ra đi một mình. Cùng đi với
ông là sự xụp đổ của cả chế độ Liên Sô và hàng loạt các chế độ cộng sản
tại Đông Âu. Chỉ đến lúc này, khi mọi hy vọng Liên Sô sống lại không
còn nữa, các lãnh tụ tại Hà Nội mới chính thức đóng cửa chính sách "Đổi
Mới Chờ Thời" và gấp rút xiết xã hội. Hầu hết các hình thức "cởi trói"
về văn hóa, chính trị rềnh rang mấy năm trước, nay đều được quyết liệt
nhưng im ắng "trói trở lại". Và lần này, cũng như thời 1960, lại có một
số quan chức bị trừng phạt vì tưởng đã có "Đổi Mới Thật". Cao cấp nhất
trong số bị thanh trừng, giáng chức trong đợt này phải kể đến các ủy
viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch.
Ông Trần Xuân Bách có dịp tuyên bố trước nhiều cán bộ
cao cấp thời đó: "Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng
dân chủ hay dân chủ mở rộng”, và "Dân chủ là quyền của dân, với tư cách
là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát - do tấm lòng của
người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia.” Ông còn khẳng định phải có
dân chủ thực sự mới có thể khơi thông trí tuệ của toàn dân tộc để đưa
đất nước đi lên ngang hàng với nhân loại.
Và thế là chính sách "Đổi Mới Như Cũ" chính thức bắt đầu năm 1991, với 4 đặc điểm chính sau đây:
Lãnh
đạo Đảng bóp chặt trở lại mọi mặt sinh hoạt văn hóa và chính trị. Không
chỉ các tờ báo có bóng dáng độc lập như tờ Langbian bị đóng cửa mà
nhiều tổng biên tập các báo chính qui cũng bị trừng phạt. Và cao điểm
là Nghị Định 31/CP Quản Lý Hành Chính, cho phép giam giữ người vô thời
hạn không cần xét xử.
Lãnh
đạo Đảng bỏ một phần lớn hệ thống kinh tế tập trung XHCN và xây lại nền
kinh tế tư bản với tên mới: kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Mở
cửa cho ngoại quốc vào đầu tư thật nhưng phải qua cửa ngõ các mạng lưới
làm ăn của thân nhân các quan chức lớn. Cả hệ thống kiểm soát kinh tế
ngặt nghèo gần nửa thế kỷ trước đó bị kết án chung là "thời bao cấp” và
Đảng bắt đầu ca ngợi chính mình là nhờ Đảng mà cả nước thoát ra khỏi
thời kinh tế bao cấp!
Lãnh
đạo Đảng trở lại với quan thầy Bắc Kinh và xem đó là chỗ dựa phải ôm
bằng mọi giá. Cho đến nay cái giá đó bao gồm các dâng nhượng lãnh thổ,
lãnh hải, quyền khai thác trên biển, khai thác trên đất liền, các báo,
đài, trang mạng trên toàn quốc, và vẫn đang tiếp tục gia tăng.
Lãnh
đạo Đảng bắt đầu quay về khoác áo dân tộc, cho phép các nhân vật lịch
sử của "thời phong kiến bóc lột” được đứng ngang hàng với các thần
thánh và anh hùng cộng sản. Và đặc biệt hơn cả là sự ra đời bất ngờ của
cả một hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, bất kể sự khẳng định ngược lại
của chính tác giả khi còn sống.
Chính sách "Đổi Mới Như Cũ" này kéo dài cho đến nay.
Hậu quả của Đổi Mới
Có người đòi phải gọi là "Đổi Mới Theo Hướng Cũ” thì
mới chính xác. Nghĩa là có chiều hướng muốn quay lại nhiều thời điểm
quá khứ tùy theo từng lãnh vực, nhưng hầu hết các kết quả đều không trở
về như cũ. Lý do là vì cách tổ chức và cách thực hiện đều theo kiểu lắp
vá theo nhu cầu tại chỗ, ngắn hạn, và tùy tiện. Hậu quả của Đổi Mới
Có người đòi phải gọi là "Đổi Mới Theo Hướng Cũ” thì
mới chính xác. Nghĩa là có chiều hướng muốn quay lại nhiều thời điểm
quá khứ tùy theo từng lãnh vực, nhưng hầu hết các kết quả đều không trở
về như cũ. Lý do là vì cách tổ chức và cách thực hiện đều theo kiểu lắp
vá theo nhu cầu tại chỗ, ngắn hạn, và tùy tiện.
Chỉ cần so sánh lại nền kinh tế tại Miền Nam trước 1975
và tình trạng hiện nay như một thí dụ cũng đã đủ để minh họa hậu quả
của cái gọi là "công ơn đổi mới” của lãnh đạo Đảng.
Ai cũng biết Kinh tế Thị trường đã có ở Việt Nam từ rất
lâu, trước khi Đảng CSVN ra đời, và trước khi chủ nghĩa Mác Lê được
nhiều người biết tới ở trời Âu!!
Đến năm 1975 thì Miền Nam Việt Nam đã xây dựng được một
nền Kinh tế Thị trường lành mạnh và năng động nhất Đông Nam Á, và hơn
cả Hàn Quốc lúc bấy giờ. Hàng hóa thuộc mọi lãnh vực tràn ngập thị
trường, bao gồm cả hàng sản xuất trong nước và hàng nhập từ nước ngoài.
Những ngôi chợ Việt Nam từ những thành phố lớn, nhỏ đến thị trấn, thị
xã, xóm làng đều chất hàng cao như núi… với người mua kẻ bán chen chân.
So với bây giờ thì nạn hàng giả hàng lậu rất hiếm. Người tiêu dùng
không phải lo lắng nhiều. Còn chuyện thức ăn bị nhiễm hóa chất độc hại
là hoàn toàn không có.
Trong lãnh vực Nông nghiệp người nông dân được làm chủ
mảnh đất của mình và tự do canh tác. Trên cánh đồng và sông lạch Miền
Nam từ đầu thập niên 70 đã nhan nhản máy cày, máy bơm nước, máy đuôi
tôm,…
Nhưng tất cả thành quả bằng bao mồ hôi nước mắt ấy đã
bị phá sạch, xóa sạch qua các đợt đổi tiền, các chiến dịch đánh tư sản
mại bản, các kế hoạch xây xóa chuyển tiểu thương.
Và ngày nay, 35 năm sau, cũng mang tên là nền kinh tế
thị trường nhưng người ta thấy thành phần chính được hưởng lợi ích
không còn là quảng đại quần chúng. Chỉ cần nhìn vào 2 lãnh vực giáo dục
và y tế đã đủ thấy:
Tại
trường học, cha mẹ học sinh phải trả hàng trăm loại lệ phí để mua chữ
cho con cái. Trong lúc đó tình trạng xuống cấp giáo dục cứ gia tăng.
Cảnh nữ sinh đánh nhau không kém gì nam sinh trên đường phố, cảnh trò
đánh và thậm chí giết thày cô, cảnh thày cô đòi học sinh phải đóng tiền
học thêm mới cho điểm cao, và khủng khiếp hơn cả, cảnh hiệu trưởng tổ
chức đường mãi dâm cho học sinh… cứ nâng mức sửng sốt của xã hội lên
từng tầng cao mới. Thời trước năm 1975 tại Miền Nam, dù sống trong khói
lửa tứ bề vẫn không hề có tình trạng quá băng hoại như vậy.
Tại
bệnh viện ngày nay, dân chúng phải đóng các khoản viện phí đến chóng
mặt: tiền thuốc, tiền giường, tiền ống tiêm, tiền dây chuyền dịch, tiền
bông và thuốc sát trùng... "tất tần tật" phải trả. Bệnh nhân lại còn bị
xúc phạm, hành hạ, làm khó đủ điều qua đủ loại "cò". Nhiều trường hợp
bệnh nhân bị bỏ cho chết vì không có tiền lót tay hoặc không làm hài
lòng y sĩ, bác sĩ của bệnh viện. Tình trạng vệ sinh, nhất là các nhà
tiêu tại các bệnh viện cho dân chúng, đều ở mức kinh hoàng. Thời trước
1975 tại Miền Nam, tuy chẳng giàu có gì và số máy móc dụng cụ cũng khá
khiêm nhường, nhưng tình trạng vệ sinh vẫn đủ tiêu chuẩn tối thiểu của
nhà thương và con người đối với nhau vẫn còn tính nhân bản, đặc biệt là
trong đội ngũ bác sĩ, y tá.
Ngược lại, nhờ kinh tế thị trường thời nay, cả một giai
cấp mới được sản sinh và tiến ra thụ hưởng hầu hết các lợi ích. Nhân
dân gọi đó là Tư Bản Đỏ vì hầu hết giai cấp này đều đang nắm hoặc có
liên hệ với các vị trí cao nhất trong đảng "Cộng Sản” Việt Nam, nghĩa
là theo định nghĩa thì họ là những người "vô sản” nhất trong giai cấp
vô sản, hay đỏ nhất trong thế giới đỏ. Các nhà "cực vô sản” này nay đã
lên hàng triệu phú và tỷ phú tính bằng đô la Mỹ. Với các tường cao cửa
kín, thỉnh thoảng dân chúng mới có chút khái niệm họ giàu có đến cỡ nào
qua các hình ảnh nội thất của ông cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, cảnh ăn
chơi của con trai trùm công an Hà Nội Nguyễn Đức Nhanh, những đoàn xe
đưa dâu đón rể choáng váng cả dân chơi thế giới tại các đám cưới con
cái quan lớn, như đám cưới con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, v.v…. Câu
hỏi khá hiển nhiên là số tài sản đó ở đâu ra nếu các "đầy tớ nhân dân”
này chỉ biết phục vụ nhân dân và lãnh lương nhà nước? Còn nếu số tài
sản đó đến từ các loại khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên của quốc
gia, từ các khoản tiền viện trợ cùa quốc tế cho người dân Việt Nam,
hoặc từ các khoản nợ mà con cháu Việt Nam phải trả trong tương lai thì
phải chăng chúng phải được trả lại cho hàng triệu gia đình vẫn còn chạy
ăn từng bữa, những người già và trẻ em không nơi nương tựa lang thang
đầu đường xó chợ, những cô gái phải bán thân cho Hàn Quốc, Đài Loan để
nuôi gia đình?
Có thể nói hiện nay giai cấp Tư Bản Đỏ là trung tâm của
xã hội. Mọi phương tiện quốc gia và nhân lực toàn quốc đều đang tập
trung vào việc phục vụ họ:
Công đoàn là phương tiện để Tư Bản Đỏ liên kết với các chủ hãng nước ngoài bóc lột hàng triệu công nhân ngay trên đất Việt.
Luật
pháp và các cơ chế ra nghị định, nghị quyết đều là phương tiện hợp thức
hóa các cơ hội làm ăn của Tư Bản Đỏ, từ khai thác bô-xít Tây Nguyên đến
cho thuê rừng dọc biên giới.
Công
an và quân đội là phương tiện trấn áp dân chúng khi Tư Bản Đỏ cần giải
phóng mặt bằng, chiếm hữu đất đai để bán cho công ty nước ngoài.
Báo chí là phương tiện ca tụng các thành công của Tư Bản Đỏ và khỏa lấp các kêu ca, khuyên can về các tác hại môi sinh.
Trong
khi đó nhiều tầng lớp nhân dân tranh nhau xin phục vụ Tư Bản Đỏ — từ
các người làm kẻ ở trong nhà; đến các tài xế, bảo vệ quanh sân; từ các
bác sĩ thầy thuốc riêng chăm sóc sức khỏe đến người mẫu chân dài cung
phụng nhu cầu.
Rõ ràng cả một giai cấp đang ngang nhiên trấn lột cả
nước, ngang nhiên tiêu xài tiền của đó ngay trước mắt các nạn nhân, và
quái lạ hơn nữa là nhân dân cả nước đang ra sức phục vụ họ. Với hiện
tượng đó, có lẽ thành quả lớn nhất của chính sách Đổi Mới sau hai thập
niên là: lãnh đạo Đảng CSVN đã chuyển hóa vô cùng thành công giai cấp
vô sản cực đoan thành những nhà tư bản lưu manh!
|