Một
lần làm việc gần đây nhất, tôi được sắp xếp gặp một vị lãnh đạo của cơ
quan an ninh. Mặc dù cuộc gặp diễn ra tại trụ sở của công an, nhưng vị
lãnh đạo ấy nói: "Không phải làm việc, không cần biên bản, bên anh chỉ muốn nói chuyện với em thôi”.
Vị ấy bắt đầu câu chuyện: "Vì những việc làm của em mà anh, cùng
nhiều anh em khác trong cơ quan an ninh phải lặn lội tìm hiểu, tiếp xúc
với gia đình, bạn bè, người thân của em, thậm chí cả những người bạn
thời niên thiếu của em. Bản thân anh dù rất bận nhưng cũng đã ngồi hàng
giờ để nghe bạn bè của em nói về em. Anh không thể hiểu được vì sao em
lại có những nhận thức sai lệch về chế độ này, có những tư tưởng chống
đối, và hành động cổ vũ cho các phần tử phản động. Em từ nhỏ được học
hành và lớn lên trong chế độ này, gia đình hoàn toàn không có nợ máu
với chính quyền, bản thân em cũng không bị chính quyền o ép hay trù
dập, vậy thì tại sao?”
Tôi ngồi im lặng, vị ấy tiếp tục: "Em cũng như anh phải lo cho
gia đình, cho vợ con. Em nghĩ đi, em từ một luật sư với nhiều văn
phòng, nhiều nhân viên, nhiều khách hàng, tiền bạc không thiếu, ngày
giờ này em không có một chiếc xe để đi, vợ con khổ sở là tại sao, em
phải nhìn thấy rõ điều đó”
Tôi buộc miệng nói: "Tại chính quyền”. Vị ấy bảo: "Em vẫn không nhận ra, nếu em làm luật sư như bao luật sư khác thì bên anh đụng đến em làm gì.”
Thông thường, sau những buổi làm việc với an ninh tôi chẳng nghĩ gì,
nhưng lần này tôi bắt đầu bâng khuâng và suy nghĩ nhiều. Không phải là
tôi suy nghĩ mình có sai lầm hay không, mà tôi suy nghĩ tại sao mình có
những nhận thức về chế độ như hiện nay. Cơ sở nào, nguyên nhân nào,
duyên cớ nào làm cho mình có những nhận thức như vậy. Tôi đâu có bị thế
lực thù địch nào tác kích. Tôi search trên google hai từ "nhận thức”,
google đã đưa tôi trở về với phép biện chứng duy vật của những người
Mác-xit.
Tôi cũng như hàng triệu người dân Việt Nam được giáo dục về một chế
độ tốt đẹp nhất của loài người. Mọi người đều được học như tôi về lịch
sử Đảng, về cuộc chiến thần thánh giải phóng dân tộc, về tấm gương đạo
đức sáng ngời của Hồ Chí Minh, về văn học giai đoạn cách mạng, về một
đất nước giàu tài nguyên thiên nhiên v...v...Hồi đó, một thầy giáo địa
lý nói rằng: "Sở dĩ nước ta nghèo là do cách giáo dục. Ví dụ như
Nhật Bản, họ giáo dục công dân rằng nước Nhật sau chiến tranh nghèo
lắm, tài nguyên thiên nhiên không có, người dân Nhật phải cố gắng để
bằng các dân tộc khác”. Tôi lờ mờ nhận ra phải so sánh mới biết XHCN có tốt đẹp hay không, Việt Nam giàu có hay không.
Rồi kỳ thi đại học cũng đến, chúng tôi thường truyền tai nhau về câu
chuyện: có một anh người miền trung học giỏi, năm nào anh thi đại học
cũng đỗ điểm cao nhưng vì lý lịch không đi học được. Nghe đâu ba anh là
sỹ quan chế độ ngụy. Lần cuối cùng anh đỗ thủ khoa, Nhà nước không còn
cách nào khác là cho anh đi học. Tôi nhận ra sự vô lý!
Tôi vào trường Luật, lần đầu tiên tiếp cận với một học thuyết đồ sộ,
được cho là vĩ đại và tiến bộ nhất của loài người - Chủ nghĩa cộng sản
khoa học! Tôi sớm thất vọng vì tư duy tôi không chịu nổi những điều vô
lý trong đó. Tôi chán các giáo điều trong học thuyết Mác - Lênin. Tôi
vào thư viện đọc các loại sách "hạn chế”. Cả một kho tàng tri thức khác
xa những điều tôi đã học dưới mái trường XHCN. Tôi tiếp cận được với
triết học hiện sinh, chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa thực dụng v.v.. Tôi
cũng tiếp cận được với các học thuyết nhà nước trọng tài, nhà nước dịch
vụ công, nhà nước gác đêm. Tôi đọc được tuyên ngôn độc lập của Mỹ, của
Pháp v.v... Những tri thức bị chính quyền xếp vào danh mục "hạn chế” đó
đã giúp tôi có cái nhìn tổng quan hơn về chế độ Cộng sản cũng như về
chính quyền hiện tại.
Rồi hàng loạt các chính biến ở các nước Đông Âu và Liên Xô xảy ra,
làm tan rã hoàn toàn khối XHCN. Tôi càng tin vào những nhận thức và lập
luận của mình. Tôi ra trường bắt đầu làm luật sư và tiếp tục học thạc
sỹ luật. Suốt trong khoảng thời gian mười mấy năm đó, tôi chứng kiến
nhiều thực tại của xã hội Việt Nam. Những thực tại khách quan của xã
hội đã tác động và củng cố những nhận thức của tôi về chế độ hiện tại.
Nhận thức của tôi là một quá trình tìm kiếm chân lý. Quá trình đó
phụ thuộc vào vào tính lô-gích trong lý luận và sự kiểm chứng bằng thực
tại khách quan. Nó không phụ thuộc vào sự cưỡng chế nhận thức hay những
hay sự rao giảng các giáo điều. Nhận thức của tôi cũng không phụ thuộc
vào những mất mát và điều kiện sống khắc nghiệt như hiện tại.
Nhận thức của tôi chỉ có thể thay đổi khi thực tại khách quan thay
đổi hay đúng hơn tôi chỉ thay đổi cái nhìn với chế độ hiện tại khi và
chỉ khi chế độ thay đổi.
LTL