Trại giam Cổng Trời có lẽ là một địa danh ít người Việt biết đến trước khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc.
Photo courtesy of phanchautrinhdanang.com
Một trại giam tại miền Bắc (ảnh minh họa).
Đây là nơi giam giữ các trọng tội hình sự và các tù nhân tôn giáo trong
đợt xóa sổ năm 1959 và sau đó mở tung cánh cửa một lần nữa vào năm 1976
để đón những tù nhân cải tạo từ miền Nam gửi ra. Trại giam Cổng Trời
dưới nhiều góc nhìn có thể nói không hề thua kém bất cứ trại giam nào
trong tác phẩm "Quần Đào Ngục Tù” của văn hào người Nga Alexandre
Soljenitsyne. Ban Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do trân trọng giới thiệu loạt
bài này do biên tập viên Mặc Lâm biên soạn sau đây với mục đích giở lại
hồ sơ những cái chết oan khuất, những con người bị chà đạp và những tài
liệu, nhân chứng cho biết trại Cổng Trời đã tra tấn, ngược đãi tù nhân
như thế nào. Loạt bài này sẽ do chính nạn nhân của trại tù khắc nghiệt
này kể lại mời thính giả theo dõi, bắt đầu từ bài thứ nhất sau đây:
Giáng sinh năm 1959
Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục giã vang lên chỉ một ngày
trước lễ Giáng Sinh năm 1959. Không phải báo hiệu sự ra đời của Chúa
Giê Su, mà tiếng chuông kêu cứu với giáo dân vì Nhà Thờ Lớn đang bị một
nhóm người đến phá rối.
Cha xứ Nhà Thờ Lớn lúc bấy giờ là linh
mục Trịnh Văn Căn, cũng chính là người ra lệnh giật chuông kêu giáo dân
đến cứu nhà thờ khi một nhóm người tự xưng là quần chúng tự phát kéo
đến dành phần trang trí nhà thờ trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1959.
Câu
chuyện bắt đầu từ trước đó một năm, chính quyền Hà Nội muốn chứng tỏ
Việt Nam khuyến khích tự do tôn giáo nên trong dịp Giáng sinh năm 1958
họ đã cho một đám đông đến Nhà Thờ Lớn tự ý chăng đèn kết hoa trang trí
bên ngoài nhà thờ và sau đó đòi nhà thờ phải trả lại tiền công lẫn tiền
mua vật liệu với tổng số tiền không ai tin nổi.
Giáng Sinh năm
1959 nhóm người này lại tiếp tục đến đòi trang trí nhà thờ nhưng gặp sự
chống cự quyết liệt của linh mục chánh xứ Trịnh Văn Căn và linh mục
Nguyễn Văn Vinh, còn được gọi là cha chính Vinh. Khi nghe tiếng chuông
báo động, giáo dân kéo tới và ẩu đả xảy ra.
Chiến dịch xóa sổ
Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế.
Ô. Phùng Văn Tại
Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy nhóm người đến phá nhà thờ do
chủ trương quá khích của một nhóm người và kết quả là linh mục Trịnh
Văn Căn, linh mục Nguyễn Văn Vinh cùng một số giáo dân bị quy tội phá
rối trị an. Linh mục Căn chịu 12 tháng tù treo, linh mục Nguyễn Văn
Vinh chịu 18 tháng tù giam vì tội "Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép,
phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong
nhân dân”
Sau phiên tòa, linh mục Nguyễn Văn Vinh bị đưa đi giam
ở Hỏa Lò, sau đó bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên
Bái, cuối cùng là trại giam "Cổng Trời” nơi dành riêng cho các tù nhân
tử tội.
Ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy môn giáo sử văn chương trong chủng viện, người biết rõ vụ việc này kể lại:
"Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước chuẩn bị trang
trí nhà thờ chính tòa để đón Noel, thì Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức
là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện. Trong khi trang trí nhà
thờ Chính tòa để mừng Noel thì cha chính Vinh cùng với một số hội Hát,
mà sau này đi theo cha chính Vinh, nhiều ca viên lên trại Cổng Trời.
Thậm chí có nhiều anh chị em chỉ 15, 16 tuổi thôi.
Hôm đó Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo vào tranh dành việc trang trí
nhà thờ. Quan điểm của Giáo hội miền Bắc lúc bấy giờ và Ủy Ban Đoàn Kết
Công Giáo như nước với lửa. Một là giữ đạo hai là theo người ta. Tranh
giành như thế cha chính Vinh cho kéo chuông. Hai cái tháp nhà thờ Chính
Tòa của Hà Nội có 6 quả chuông cha chính Vinh cho ca đoàn lên kéo cùng
một lúc, cứ như thể một cuộc báo động lớn năm 1959 cho nên kinh khủng
lắm, và họ hô nhau đến bắt cha chính Vinh.”
Những nạn nhân đầu tiên
Linh Mục Nguyễn Văn Vinh.
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ
thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn
Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết
sau đó trong trại giam Cổng Trời. Ông Phùng Văn Tại kể:
"Bắt
cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên. Nó thành một cái môtif tức
là cái mẫu chung của những người bị bắt. Bắt vào đây trước tiên vì
những cái gì? và cuối cùng là chết thế nào. Cha chính Vinh bị bắt và
cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt
cho đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha
chính Vinh là như thế.”
Cổng Trời và Gulag
Trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù nổi tiếng thế giới, văn hào
Aleksander I. Soltzhenitsyn kể lại chế độ Liên Xô lúc ấy đã tiêu diệt
đạo công giáo một cách tỉ mỉ đến nỗi nếu so sánh tình trạng bách hại
tôn giáo dưới thời Stalin và cộng sản Việt Nam thì người ta sẽ ngạc
nhiên vì cách thức của chúng giống nhau như hai giọt nước.
Soltzhenitsyn viết:
"Nguyên một hôm các viên chức địa phương
đột nhập Tu viện Zvengiorod, cho đòi Cha Bề trên Ion. Ông này nổi danh
trong Giáo hội Nga, nguyên là Firguf, sĩ quan kỵ binh trong đội Ngự lâm
quân Nga hoàng, được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của
cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo: "Mời quá bộ ra đây có
chút việc" và yêu cầu ông Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của
Thánh tử đạo Savva. Mấy người Nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút
thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông
còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh
có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo
chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một chầu xung sát có 1 hay 2
ông thiệt mạng.”
Trong nhiều năm trời, các chủng viện khắp
miền Bắc Việt Nam bị đàn áp một cách có hệ thống. Linh mục, tu sĩ cũng
như chủng sinh và giáo dân đều là nạn nhân của chính sách này. Cha
Nguyễn Thanh Đương, linh mục chánh xứ Quy Hậu, Nghệ An cho biết:
Họ bắt tất cả phần tử công giáo bị nghi ngờ. Một số anh em biệt kích,
những gia đình có người đi Nam, người thì địa chủ, phản động khi tình
nghi thì họ sẽ tập trung.
LM Nguyễn Thanh Đương
"Tôi bị bắt vào tháng 5 năm 1964. Bị bắt nhiều lần. Chủ trương
của họ trong năm 60 khi quốc hội họp bắt tất cả các phần tử họ sợ trong
miền Nam tổ chức Bắc tiến. Họ bắt tất cả phần tử công giáo bị nghi ngờ.
Một số anh em biệt kích, những gia đình có người đi Nam, người thì địa
chủ, phản động khi tình nghi thì họ sẽ tập trung.
Trong lúc đó
có chủ truơng dẹp tất cả các chủng viện dần dần bằng cách này cách khác
làm cho vấn đề đào tạo linh mục không còn nữa. Họ cũng có hướng cho
rằng 40 năm sau thì trên đất Bắc không còn công giáo nữa. Các linh mục
chết hết rồi. Ông linh mục nào vâng lời đi theo họ thì họ để cho hoạt
động còn những linh mục có thái độ không cộng tác với họ thì nó bắt.
Họ
có ý tập trung một số linh mục nào nghe họ thì họ để ở dưới xuôi, còn
những cha không cộng tác thì họ tập trung ở những xứ trên rừng. Còn
các thầy ở các chủng viện anh nào không về xây dựng gia đình thì họ sẽ
tập trung cải tạo.”
Soltzhenitsyn kể lại trong Quần Đảo Ngục
Tù của ông nhiều đoạn như được trích lại từ Việt Nam mặc dù ông không
hề có một khái niệm nào về đất nước Việt Nam:
"Không địa
phương nào không có một vụ án tôn giáo để "triệt hạ bằng hết phản
động", nghĩa là tu sĩ, linh mục, con chiên hàng loạt bị đưa ra toà.
Trước vụ tu viện Zvengiorod bị xâm nhập, Đức Giáo chủ Tikhon từng nhiều
lần phản kháng Nhà nước cấm giảng đạo, bắt bớ tu sĩ hoàn toàn với tội
danh mơ hồ "phản Cách mạng". Chỉ có một thời gian công tác triệt hạ
Giáo hội tạm lơi vì Nhà nước còn lo lấy lòng tín đồ Chính thống giáo để
rảnh tay thanh toán nội chiến. Dẹp xong Denikin và Kolchak là những
phiên toà lại dồn dập như sóng trào.”
Cán bộ Nhà nước tỏ ra
không thua kém Liên Xô về khoản bắt bớ. Không phải họ chỉ bắt linh mục,
cả những người giảng dạy tại chủng viện hay các chủng sinh, giáo dân
cũng đều chung số phận trong cuộc bách hại này. Ông Phùng Văn Tại là
một trong những giáo sư giảng dạy tại chủng viện kể lại:
"Công
việc của tôi từ năm 1952 cho tới khi tan chủng viện năm 1967 là dạy cho
6 lớp với 120 chủng sinh. Lớp tôi có 11 người, hai linh mục.
Mùng
5 tháng 6 năm 1960 thì tôi được mãn trường khi đang học ở tiểu chủng
viện. Đức Cha phát bìa sai nó như một cái quyết định phân công. Tôi ở
lại dạy chủng viện với hai người cùng lớp nữa cho đến 30 tháng 5 năm
1963 thì tôi bị bắt. Lý do là người ta không muốn có chủng viện người
ta muốn xóa sạch những người làm việc Chúa thế thôi, không muốn chúng
tôi làm linh mục.”
Không thể sống chung
Chúng tôi bị đưa lên cổng trời chỉ có tôi và anh Đang là không làm dấu
thánh giá và không theo đạo Thiên chúa thì còn sống, còn tất cả 70
người đều chết hết cả.
Ô. Kiều Duy Vĩnh
Qua kinh nghiệm từ những nhân chứng khi viết Quần Đảo Ngục Tù, văn
hào Soltzhenitsyn xác định người cộng sản không thể chung sống với tôn
giáo, mà công giáo là tôn giáo nguy hiểm hàng đầu cần phải để ý. Trong
một chương nói về công giáo ông viết:
"Không cần giữ theo
luật! Đây là lúc vô cùng thích hợp để thanh toán cho xong vấn đề tôn
giáo mấy năm nay vẫn phải tạm gác lại vì nỗ lực chấm dứt nội chiến. Đây
cũng là lúc người Cộng sản phải minh định thế đứng trước người Công
giáo, một thế đứng bất khả dung hợp ngay từ quan điểm căn bản "nhà thờ
là nhà thờ và Nhà nước là Nhà nước". Không được.”
Cách thức
mà người cộng sản Việt Nam theo đuổi lúc ấy không khác mấy với Liên
bang Xô Viết trước đó. Miền Bắc xóa sổ đạo công giáo như thế nào sau
hiệp định Geneve? Ông Trần Quốc Định tức nhà văn Đặng Chí Bình, một
điệp viên nổi tiếng miền Nam được gửi ra Bắc hoạt động bị giam giữ
nhiều năm trời tại miền Bắc, tác giả quyển Thép Đen viết về những người
tù, kể lại những điều được chứng kiến mặc dù ông không phải là một tín
hữu công giáo, ông kể:
"Tôi lúc đấy đã hiểu, trước đấy tôi
cũng đã hiểu nhưng khi ra miền Bắc tiếp xúc với cán bộ và thỉnh thoảng
lên trại trung ương lại gặp rất nhiều chủng sinh ở trại E này. Hội nghị
Geneve 20 tháng 7 năm 1954 khi đến tay của họ, mặc dù trong hiến pháp
nói tự do tín ngưỡng tự do ngôn luận …nhưng thực tế xã hội miền Bắc tất
cả khi đến tay họ thì họ đóng kín mít, nội bất xuất ngoại bất nhập, do
đó tất cả các đại chủng viện của Công giáo ngoài miền Bắc tất cả..xin
mời các anh đi về nhà, họ lấy lý do thế này: Anh phải đồng ý với tôi
dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có ai ăn bám ai…anh phải
đồng ý thôi vì anh ở trong tay của họ! Lúc ấy họ cầm vạt áo của
anh họ hỏi: Anh có làm ra cái áo này không? Anh nói không. Họ chỉ xuống
đôi dép của anh họ hỏi: anh có làm ra cái này không? Anh bảo không! Cái
kính anh đeo trên mắt anh có làm không? Không thì vậy chính là xã hội
làm cho anh vậy thì anh phải trả lại xã hội vì không ăn bám ai mà! Tóm
lại anh vẫn phải đi nghĩa vụ quân sự, đi kinh tế mới. Tất cả điều gì
người công dân làm thì anh phải làm, anh ăn nhờ xã hội thì anh không
thể phây phây đi tu được nữa!”
Kiều Duy Vĩnh, chứng nhân Cổng Trời
Người tù nổi tiếng của trại giam Cổng Trời, đại úy Kiều Duy Vĩnh.
Một người tù nổi tiếng của trại giam Cổng Trời là đại úy Kiều Duy Vĩnh.
Ông và Nguyễn Hữu Đang bị nhốt chung với 70 người gồm linh mục tu sĩ
chủng sinh và có người chỉ là giáo dân công giáo. Ông Vĩnh cho biết
kinh nghiệm của mình như sau:
"Vì
gia đình tôi không đi tôi ở lại, gia đình tôi là địa chủ cường hào. Bố
tôi bị giết tại Gia Lâm, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Vào năm 1959 tôi
bị bắt cùng với anh Nguyễn Hữu Đang và 70 tu sĩ và các cha cố. Chúng
tôi bị đưa lên cổng trời chỉ có tôi và anh Đang là không làm dấu thánh
giá và không theo đạo Thiên chúa thì còn sống, còn tất cả 70 người đều
chết hết cả.
Có hai linh mục, linh mục thứ nhất là linh mục
Vinh thuộc địa phận Hà Nội. Linh mục thứ hai là cha Quế ở địa phận Nghệ
An. Chỉ có hai linh mục còn tất cả là tu sĩ. Chúng giết anh em ở khu A
khu H khu O. Những lò thiêu xác không có mồ không có khói và không cần
chất đốt. Vào khu O là chết. Hai người đầu tiên vào đó chết là linh mục
Vinh và linh mục Quế, rồi lần lượt sau đó các tu sĩ đều chết hết cả.
Chỉ
có tôi và Nguyễn Hữu Đang còn sống vì anh Đang là lão thành cách mạng
còn tôi thì không theo đạo Thiên Chúa. Họ chĩa mũi dùi chuyên chính
cách mạng vào các người Thiên Chúa Giáo, những người tu sĩ và linh mục.”
Quý
vị vừa theo dõi bài đầu tiên của loạt bài "Trại giam Cổng Trời" do các
nhân chứng kể lại cách mà người cộng sản bách hại tôn giáo như thế nào.
Tất cả chỉ là mới bắt đầu cho một giai đoạn vô cùng khó khăn của người
công giáo Việt nam, mời quý vị đón theo dõi tiếp bài thứ hai trong
chương trình kỳ tới để hiểu thêm một giai đoạn có nhiều người chết nhất
trong trại giam mang tên Cổng Trời tại Hà Giang Việt Nam.
Những người tù miền Nam
Năm 1977 tức 18 năm sau đêm Giáng Sinh bách hại, từ miền Nam xa xôi,
linh mục Nguyễn Hữu Lễ tiếp bước LM Nguyễn Văn Vinh vào trại Cổng Trời
để làm chứng nhân của một trại giam khắc nghiệt nhất thế giới. LM
Nguyễn Hữu Lễ kể lại những kỷ niệm mà chính trong đêm Giáng Sinh năm
1977 ông và những người người tù miền Nam chịu đựng:
"Chúng tôi bị đưa ra Bắc vào năm 1977 và trong đêm Giáng Sinh năm
ấy. Trước ngày Giáng Sinh thì nó có một cuộc tương đối là biến động,
bởi một số tù miền Nam còn trẻ ra đây thì người ta phản đối và bày tỏ
thái độ phản kháng trong tù, đặc biệt nhất là những anh em công giáo.
Cũng vì cái tội có vài lần vượt ngục như vậy cho nên họ đã đưa tôi
lên trại Cổng Trời cùng với 5 linh mục tuyên úy khác là linh mục Cao
Đức Thuận, linh mục Nguyễn Thiện Thuật, linh mục Đinh Cao Thuấn, linh
mục Nguyễn Văn Hùng tất cả lên trại Cổng Trời kể từ tháng 12 năm 1977.
LM Nguyên Thanh
Đúng vào đêm Giáng Sinh, chỉ có mình tôi là linh mục trong trại
Nam Hà thôi. Sau khi kẻng điểm danh rồi thì anh em các buồng khác hướng
về cái buồng của tôi, lúc đó tôi âm thầm dâng lễ. Tôi đã dấu được bánh
lễ và rượu lễ mang ra từ miền Nam, để rồi làm lễ âm thầm trong mùng.
Anh em hướng tâm hồn với tôi để dâng lễ trong đêm Giáng Sinh. Khi tôi
dâng lễ vừa xong thì cửa buồng mở ra và có một cuộc đổi buồng rất lớn
xảy ra. Hai mươi người trong số chúng tôi bị còng tay đưa lên trại Cổng
Trời.”
LM Nguyên Thanh, một nhạc sĩ viết thánh nhạc nổi tiếng trong giáo
hội Việt Nam cũng theo bước chân LM Lễ lên trại Cổng Trời cùng thời
gian mùa Giáng Sinh năm 1977. LM Nguyên Thanh không đi một mình, ông
cùng với 5 linh mục tuyên úy khác bước chân vào trại trong một mùa đông
giá rét, ông kể:
"Khi tôi bị bắt là ngày 19 tháng 6 năm 1976 cùng với anh Nguyễn
Văn Thanh là em ruột của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cùng nhau vượt ngục ở
trại Suối Máu, sau đó bị bắt lại và bị đánh một trận gần chết, bị còng
tay đưa xuống tàu suốt hai tuần lễ ra Bắc và đưa vào trại Sơn La.
Tôi lại tham gia vào một vụ vượt ngục khác tại trại Sơn La rồi
cũng bị bắt lại và bị đánh một trận gần chết thứ hai, sau đó bị cùm 6
tháng. Cũng vì cái tội có vài lần vượt ngục như vậy cho nên họ đã đưa
tôi lên trại Cổng Trời cùng với 5 linh mục tuyên úy khác là linh mục
Cao Đức Thuận, linh mục Nguyễn Thiện Thuật, linh mục Đinh Cao Thuấn,
linh mục Nguyễn Văn Hùng tất cả lên trại Cổng Trời kể từ tháng 12 năm
1977.”
Những nhân chứng sống
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
Theo lời kể của người tù Kiều Duy Vĩnh thì ông là người đã chứng kiến
từng người tù ngã xuống trong trại giam nghiệt ngã này. Ông xác định
chỉ mình ông và Nguyễn Hữu Đang là sống sót sau nhiều năm bị nhốt tại
đây. 72 người đến trại giam chỉ hai người trở lại. Bức tranh bi thảm
này làm sao diễn tả nổi sự kinh hoàng phía sau khung bố của nó? Người
tù Kiều Duy Vĩnh cho biết:
"Không còn ai cả! Tại vì lúc bấy giờ tôi còn trẻ lắm tôi sinh năm
1931 mà. Tôi là người hầu như trẻ nhất trong 72 người. 70 người còn lại
đều là tu sĩ cả. Những người như cha Vinh, cha Quế. Chỉ còn tôi và anh
Nguyễn Hữu Đang là người không theo đạo.”
Qua kinh nghiệm nhiều năm tù đày trong trại Cổng Trời, LM Nguyễn Hữu
Lễ nhận xét do đâu mà người cộng sản mong muốn tiêu diệt niềm tin công
giáo một cách nghiệt ngã như vậy, ông nói:
Không ai biết có bao nhiêu người đã bỏ mình trong trại giam Cổng Trời ngoại trừ những người đi cùng toán với nhau.
LM Nguyễn Hữu Lễ
"Không ai biết có bao nhiêu người đã bỏ mình trong trại giam Cổng Trời ngoại trừ những người đi cùng toán với nhau.”
LM Nguyễn Thanh Đương, người bị giam trong trại Cổng Trời 18 năm cho biết về những bạn tù của ông như sau:
"Tôi có ở cổng trời nhưng thời gian đó những người lên đó coi như
là được xếp vào loại chết. Nói về hình khổ trên ấy thì nhiều lắm, mỗi
người có một cái khổ riêng. Nhiều khi trong một trại nhưng người kể thế
này người kể thế khác.
Tù thì nhiều nhà tù, nhiều hình khổ khác nhau. Mình chứng kiến
hoặc mình nghe anh em đi tù kể lại cũng không thể biết hết được tội ác
của họ đâu. Mình bị 18 năm nhưng có cha 20 năm, 22 năm. Thầy Cao Ngân
22 năm nhưng Ngài chết rồi.”
Tuyệt thực Cổng Trời: chống bạo lực bằng im lặng
Người tù nổi tiếng của trại giam Cổng Trời, đại úy Kiều Duy Vĩnh.
Những người tù công giáo đầu tiên trong đợt Giáng Sinh năm 1959 theo
chân linh mục Nguyễn Văn Vinh đã tay không chống lại sự đàn áp đức tin
của họ trước cán bộ trưởng trại giam một cách bền bỉ như thế nào được
ông Kiều Duy Vĩnh kể lại trong bài viết mang tên "Tuyệt Thực Cổng Trời"
rất nổi tiếng. Trong phần mở đầu ông viết:
"Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi
sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm thù những
người theo đạo Thiên Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều
chĩa vào những người con Chúa.
Thứ nhất là các vị Giáo sĩ trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả
nam lẫn nữ. Trong ngục tù Cộng sản, tôi đã gặp hai bà Sơ bị bắt vào
xà-lim, rồi đến các ông chánh trương, trùm trưởng, cả đến những người
trong Hội Trống, Hội Kèn Nhà Thờ cũng bị bắt đi tù hàng loạt. Tôi thấy
đa số họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng ra sao. Không biết họ mắc
tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa
Jê-Su. Thế thôi.
Còn tôi, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói
thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công giáo đi tù đều chết hết. Có
nhiều người còn sống sau cuộc tù đày, những anh Thi, anh Thọ, chị Diệp,
là những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn
Nguyên Công "Cửa” tức Nguyễn Công Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn
Hữu Bổn, người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc Nam Đàn…”
Vì những người Cộng Sản căm thù những người theo đạo Thiên Chúa nên
tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào những người con Chúa.
Ông Kiều Duy Vĩnh
Tác giả Kiều Duy Vĩnh hiện vẫn còn sống tại Hà Nội, mặc dù đã hơn 80
nhưng tính tình vẫn còn lạc quan, và đặc biệt là không bao giờ thỏa
hiệp với chế độ mà ông đang sống cùng. Ông đích thân kể lại cho chúng
tôi câu chuyện bi tráng này như sau:
"Lên đến nơi việc đầu tiên của cán bộ quản lý trại giam là: "Ai
cho các anh ăn? Không có thằng Giê Su nào, con mẹ Maria nào cho các anh
ăn cả. Đảng và chính phủ cho các anh ăn vậy cấm không được làm dấu
trước khi ăn!" Tất cả các tràng hạt, tất cả cái gì thuộc về kinh bổn,
chữ thập đều bị tịch thu hết và tôi trở thành người tiến bộ.
Các ông ấy không ăn, các ông ấy tuyệt thực vì bị cấm làm dấu
trước khi ăn. Tôi được ba bữa, ngày thứ nhất đến trưa thứ hai thì tôi
đói quá. Các tu sĩ thấy tôi đói quá bảo thôi anh ăn đi, họ chỉ cấm
những người công giáo không được đọc kinh làm dấu trước khi ăn thì tôi
và anh Đang là người không công giáo.
Thật tình tôi đói lắm, lúc bấy giờ tôi còn khỏe lắm. Tôi cao 1
thước 76 nặng 72 cân. Tôi đói lắm. Cha sanh mẹ đẻ tôi không đi nhà thờ
và không làm dấu bao giờ cả. Trưởng trại giam bảo tôi tiến bộ, tôi bảo
tôi không phải là người công giáo nên không làm dấu chứ chả có tiến bộ
gì cả, đói phải ăn thôi. Vậy là tôi sống còn bao nhiêu chết cả!”
LM Nguyễn Văn Lý bị công an mặc thường phục bịt miệng tại toà án Thừa Thiên-Huế tháng 3/2007
Trong bài viết "Tuyệt Thực Cổng Trời" tác giả Kiều Duy Vĩnh kể lại
một điều quan trọng đó là người cộng sản cố tìm cách giết những người
tù công giáo này như thế nào, ông viết:
"Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha
Quế, Tu sĩ Đỗ Bá Lang, Tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng
bét so với các đấng Tù ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào
tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc Thánh đó thấy tôi là một
phần tử tốt. Này nhé: Tôi không có đạo, tôi không cầu kinh, không làm
dấu thánh, không ăn chay Lễ Phục Sinh, không theo nghi lễ Giáng Sinh.
Như thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị quá
rồi còn gì nữa.
Còn với các đấng Tù kia, nội qui trại tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ
cầu kinh, cấm làm dấu thánh trước trước khi ăn, các vị cứ làm dấu
thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh các vị tự ý nghỉ, không chịu đi làm.
Ông Kiều Duy Vĩnh
Còn với các đấng Tù kia, nội qui trại tù cấm tù cầu kinh, các vị
cứ cầu kinh, cấm làm dấu thánh trước trước khi ăn, các vị cứ làm dấu
thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh các vị tự ý nghỉ, không chịu đi làm."
Câu chuyện "Tuyệt Thực Cổng Trời" kết thúc bởi sự rút lui của cán bộ
trưởng trại giam vì không thể bắt 70 người tù này chết đói khi họ cương
quyết không ăn uống nếu bị cấm làm dấu thánh giá.
Những con người xem rất bình thường này đã tranh đấu trước cái đói
một cách phi thường và lần đầu tiên tại Cổng Trời sức mạnh của quyền
lực phải chịu thua sự im lặng trong niềm tin. Nhưng 70 người được ông
Vĩnh gọi là những "đấng Tù", những "bậc Thánh" ấy không một ai sống sót
trở về với gia đình, xã hội, với bàn dâng lễ ở nhà thờ..