Quỳnh Như, phóng viên RFA
2010-04-12
Cuộc
chiến tại Việt Nam đã kết thúc cách nay 35 năm nhưng đối với một thành
phần đông đảo người Việt Nam, cả trong lẫn ngoài nước, vẫn còn nhiều
điều cần phải bàn cãi và làm sáng tỏ.
Photo: RFA
Buổi Hội thảo "Việt Nam 35 năm nhìn lại" tại Hoa Thịnh Đốn ngày 9 tháng 4, 2010
Đó là chủ đề một cuộc hội thảo quy tụ gần 50 nhân vật gồm những cựu
tướng lãnh Hoa Kỳ và những nhà nghiên cứu quân sự, nghiên cứu sử học
của Mỹ, cùng với môt số nhà nghiên cứu, cựu viên chức cao cấp Việt Nam
Cộng Hoà trong thành phần diễn giả và tham dự lên đến gần 200 người,
trong hội trường U.S. Army and Navy Club tại Washington.
Dư luận không thể là bằng chứng
Vai trò và tinh thần chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà trong
trận chiến 20 năm tại Việt Nam kết thúc cách nay đã 35 năm vẫn chưa
được nhiều người trong hai thành phần tham chiến đánh giá đúng đắn. Dư
luận Mỹ nay đã nhìn lại đôi phần từ khi có đông đảo người Việt sang tị
nạn, nhưng cũng còn sót lại những khuynh hướng đổ lỗi cho sự thất bại
của phe đồng minh ở Việt Nam là do sự yếu kém trong sức chiến đấu của
quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Phía đảng Cộng Sản Việt Nam thì luôn luôn
nhấn mạnh đến vai trò của quân đội Hoa Kỳ, coi thành tích chiến đấu của
quân đội miền Nam chỉ là thứ yếu, kém cỏi, tuy vẫn mạnh tiếng tố cáo
quân đội này đã gây ra những tổn thất lớn lao cho lực lượng Cộng Sản từ
những ngày nổi dậy ở miền Nam cho đến những trận tổng tấn công 1968,
1972 và 1975 của quân đội miền Bắc.
Dư luận Mỹ nay đã nhìn lại đôi phần từ khi có đông đảo người Việt sang
tị nạn, nhưng cũng còn sót lại những khuynh hướng đổ lỗi cho sự thất
bại của phe đồng minh ở Việt Nam là do sự yếu kém trong sức chiến đấu
của quân đội Việt Nam Cộng Hoà.
Cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Washington, ông Bùi Diễm phát biểu lời
khai mạc tại cuộc hội thảo "Việt Nam 35 năm nhìn lại" tại Hoa Thịnh
Đốn. (April 4, 2010)
Sự thật lịch sử rất quan trọng đối với người Hoa Kỳ trong thế hệ ngày
nay đang điều hành chính sách với Việt Nam , cũng như đối với những thế
hệ đi sau của của những người chiến sĩ và viên chức Việt Nam Cộng Hoà.
Những thế hệ hậu duệ đó nay đang chiếm giữ ngày càng nhiều những vị thế
quan trọng trong nhiều lĩnh vực ở nhiều nước bên ngoài Việt Nam, cũng
là thành phần không kém quan trọng đối với tương lai chính trị, kinh
tế, xã hội của nước Việt Nam sau này. Nhìn lại lịch sử sau 35 năm
chiến tranh về vai trò chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, do đó,
là chủ đề cuộc hội thảo tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ, do cựu đại sứ
Việt Nam Cộng Hoà tại Washington, ông Bùi Diễm, và những người có tâm
huyết với những người Việt quốc gia trong và ngoài nước tổ chức hôm thứ
sáu mùng 9 tháng 4 năm 2010.
Sự thật bị bóp méo
Một trong những nhân vật đã từng chứng kiến những giờ phút quan
trọng của lịch sử là cựu Đại sứ Bùi Diễm - ông từng là thành viên trong
phái đoàn của chính phủ quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hoà tham gia
Hội nghị Geneve 1954, Hội nghị Paris năm 1973, từng nắm giữ các chức
vụ Bộ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Đại sứ lưu động
của Việt Nam Cộng Hoà phát biểu lời khai mạc: Đại sứ Bùi Diễm:
"Hôm nay chúng tôi muốn chứng minh đã có sự bóp méo lịch sử, xuyên tạc
những gì đã xảy ra ở miền Nam Việt Nam trước đây, và phản bác những
định kiến sai lầm về vai trò, cũng như sức chiến đấu của Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà.
Hôm nay chúng tôi muốn chứng minh đã có sự bóp méo lịch sử, xuyên tạc
những gì đã xảy ra ở miền Nam Việt Nam trước đây, và phản bác những
định kiến sai lầm về vai trò, cũng như sức chiến đấu của Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà
Đại sứ Bùi Diễm
Trong thập niên 1960, trên báo chí Mỹ, chẳng hạn như tờ Newsweek, đã
có những tin tức, những bài báo với hàng tít: "Kẻ địch như hổ, còn
chúng ta chỉ là những chú thỏ đế”. Dưới mắt những nhà báo có lối nhìn
thiên lệch này, những "con hổ” được dùng để chỉ quân Cộng Sản , còn
Hoa Kỳ và phía Việt Nam Cộng hoà bị ám chỉ là "những chú thỏ đế” một
biểu tượng của sự hèn nhát. Sự thật thế nào. Ông Bùi Diễm cho biết: Đại
sứ Bùi Diễm:"Trên thực tế, những "con thỏ” đó đã chiến đấu rất dũng
mãnh. Trong số các diễn giả tham dự hội thảo này, có những người đã
từng chiến đấu hồi Tết Mậu Thân ở Huế, trong đợt phản công hồi "Mùa hè
Đỏ lửa” năm 1972 để giải vây An Lộc và tái chiếm Quảng Trị. Những
nhân chứng từng tận mắt chứng kiến những gì đã diễn ra sẽ chứng thực sự
dũng cảm và kể về những chiến công của Quân lựcViệt Nam Cộng hoà trong
muôn vàn khó khăn. Dựa vào những kinh nghiệm mà họ đã từng trải qua
trong cuộc chiến sôi động lúc đó. Các nhân vật này sẽ trình bày với
chúng ta về sự thật đích thực”.
Trong khi báo giới Mỹ ca ngợi sự dũng cảm của quân nhân Hoa kỳ ở Khe
Sanh thì những chiến công của quân đội Việt Nam Cộng Hoà trên chiến
trường An Lộc, Quảng Trị hay trước đó là trong trận phản công hồi Tết
Mậu Thân lại không được báo giới Mỹ nhắc đến.
Trong khi báo giới Mỹ ca ngợi sự dũng cảm của quân nhân Hoa kỳ ở Khe
Sanh thì những chiến công của quân đội Việt Nam Cộng Hoà trên chiến
trường An Lộc, Quảng Trị hay trước
Thảm sát tại Huế năm 1968 vào Tết Mậu Thân của cộng sản VN. Courtesy NgoTheLinh (VN special forces website)
đó là trong trận phản công hồi Tết Mậu Thân lại không được báo giới Mỹ
nhắc đến. Tuy nhiên có những sự thật không ai có thể chối bỏ.
Cuộc thảm sát ở Huế: bằng chứng cụ thể
Năm 1968, Việt cộng mở một cuộc Tổng tấn công ở hầu hết các thành
phố khắp Miền Nam như: Saigon, Huế, Đà Nẵng, Biên Hoà, Ban Mê Thuột,...
Trong các trận đánh ấy, cuộc thảm sát ở Huế là sự kinh hoàng khó
quên đối với dân chúng. Đại tá Trần Minh Công thuộc Lực lượng Cảnh sát
Quốc gia Nam Việt Nam, cho biết, có khoảng 5,200 người vô tội, hầu hết
là thường dân, trong đó có cả những nhà truyền giáo và giáo sư ngoại
quốc được Viện Đại học Huế thỉnh giảng đã bị Việt cộng giết hoặc chôn
sống. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người từng đảm trách chức vụ Giám
đốc Phòng Thông tin, Đại sứ quán Việt Nam tại Washington trong thời
gian này nhận định, một trong những lý do khiến cuộc tấn công của Việt
cộng vào Huế trở thành đẩm máu và kinh hoàng nhất là vì: Nguyễn Ngọc
Bích: "Nếu như cuộc tiến công hồi Mậu Thân vào Saigon là sự kết hợp của
lực lượng quân giải phóng ở miền Nam dưới sự chỉ huy của Trần Văn Trà,
Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng, cộng với các đơn vị chính quy miền Bắc
do Lê Đức Anh và Mai Chí Thọ lãnh đạo thì lực lượng tấn công Huế chỉ có
quân chính quy Bắc Việt và kết quả của mặt trận Huế sẽ mang lại uy danh
cho lực lượng này. Đây chính là điểm quan trọng nhất để quy trách nhiệm
đối với những kẻ đã gây nên các cuộc thảm sát ở Huế năm 1968”.
Lực lượng tấn công Huế chỉ có quân chính quy Bắc Việt và kết quả của
mặt trận Huế sẽ mang lại uy danh cho lực lượng này. Đây chính là điểm
quan trọng nhất để quy trách nhiệm đối với những kẻ đã gây nên các cuộc
thảm sát ở Huế năm 1968
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân còn cho thấy, Bắc Việt đã có sự thay đổi
về chiến lược, từ chiến tranh du kích sang chiến tranh chính quy. Cựu
Đại tá Cảnh sát Trần Minh Công cho biết: Trần Minh Công: "Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân Cộng Sản đã bất ngờ
tấn công miền Nam nhưng đã bị quân đội Việt Nam Cộng Hoà và lực lượng
Cảnh sát kết hợp phản công tức thời. Vì thế âm mưu của Bắc Việt đã thất
bại nhanh chóng. Kết quả là tổn thất về phía lực lượng Cộng Sản ở miền
Nam rất cao và sau thất bại này, hầu hết các cơ sở nội thành và các chi
bộ cộng sản được xây dựng từ lâu đã bị lực lượng Cảnh sát phá vỡ. Hai
năm sau cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân, Cộng Sản Việt Nam không thể tập
hợp lực lượng để mở một trận đánh lớn nào vào quân đội Việt Nam Cộng
hoà cho đến mùa hè 1972”.
Sức mạnh thực sự của QĐVNCH tại An Lộc và Quảng Trị
Sang năm 1972, Bắc Việt nghĩ rằng có thể sẽ giành được những chiến
thắng quyết định trên chiến trường. Với chiến lược Việt Nam hoá chiến
tranh, lúc này, Quân lực Việt Nam Cộng hoà, có sự yểm trợ hoả lực của
Mỹ tự lực chiến đấu với quân đội Bắc Việt được Liên Xô và Trung Quốc
ủng hộ, trợ giúp súng đạn tối tân. Đầu tháng Tư năm 1972, Cộng Sản
Bắc Việt mở một trận đánh lớn vào An Lộc, một thị trấn nằm trên quốc lộ
13, nối liền Saigon với vùng biên giới Campuchia thuộc tỉnh Bình Long,
với âm mưu biến khu vực này thành bàn đạp, tiến chiếm Saigon,. Bắc
Việt đã huy động một lực lượng hùng hậu, quân số gấp bốn lần quân trú
phòng, tấn công mãnh liệt với sự yểm trợ của xe tăng và đại pháo. Sau
7 đợt tấn công, kéo dài gần hai tháng, mất hàng chục ngàn quân, chưa kể
hàng chục ngàn lính bị thương, cuối tháng 5 năm 1972, Bắc Việt phải
tháo lui.
Tại An Lộc. sau 7 đợt tấn công, kéo dài gần hai tháng, mất hàng chục ngàn quân,
chưa kể hàng chục ngàn lính bị thương, cuối tháng 5 năm 1972, Bắc Việt
phải tháo lui.
Trong mùa hè năm 1972, người miền Nam quen gọi là "Mùa hè đỏ lửa”,
Bắc Việt xua quân tràn qua biên giới Việt – Lào và khu phi quân sự ở vĩ
tuyến 17 chia cắt hai miền, để tấn công Quảng Trị-Hụế. Sư đoàn 3 Quân
đội Việt Nam Cộng Hoà thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư
đoàn quân miền Bắc và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo,
hoả tiễn đủ loại. Đến tháng 5 năm 1972 thì quân Bắc Việt chiếm được
toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi
sự phản công. Đầu tháng 7 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa phản
công để tái chiếm Quảng Trị- Đông hà.
Tái chiếm thành Quảng Trị. Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh
Cuộc chiến 81 ngày giành lại thị xã và thành cổ Quảng Trị trở thành
trận đánh ác liệt nhất trong "Mùa hè đỏ lửa”. Hai sư đoàn dũng mãnh
nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà là Nhảy dù và thuỷ quân lục chiến
làm lực lượng tấn công chính. Một
Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù Việt Nam Cộng hoà từng tham
chiến tại Quảng Trị thuật trận đánh Cổ Thành đầu tiên, nổi bật tinh
thần chiến đấu của đoàn quân Mũ đỏ. Ông thuật lại: tiểu đoàn của ông
đi vòng lên hướng đông bắc, (xử dụng lối đánh vào ban đêm)bí mật nhổ
hết chốt địch dọc đường, bất ngờ đánh vào làng Tri Bưu, và áp sát cửa
Tả của cổ thành sau 18 ngày tấn kích liên tục qua những biển chốt phòng
thủ của quân Bắc Việt. Ông nói tiếp lúc quân Việt Nam tràn qua bức
tường thành:
Quảng Trị, cuộc chiến 81 ngày giành lại thị xã và thành cổ Quảng Trị trở thành
trận đánh ác liệt nhất trong "Mùa hè đỏ lửa”. Hai sư đoàn dũng mãnh
nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà là Nhảy dù và thuỷ quân lục chiến
làm lực lượng tấn công chính.
"Trái bom tinh khôn gây một tiếng nổ bất ngờ, rung chuyển mặt đất,
khoét một lỗ có đường kính khoảng 2m trên bức tường thành, đất đá ào ào
đổ xuống hào nước rộng 20 mét cho quân tấn công chạy qua, trông như một
phép lạ. Đại đội 51 tràn qua lỗ hổng đó vào bên trong… Tiếng súng
M-16, M-60, M-79 vang động rõ mồn một. Đại đội 52 lập tức xông vào
tiếp. Binh sĩ đại đội 51 đang ruợt bắn địch quân trên tường thành.
Mọi thứ diễn ra y như kế hoạch đã định. Máy bay A 37 đánh hai trái
bom rất chính xác, ngay cột cờ. Nhưng chiếc Phantom sau lại đánh theo
màn khói bom trước đã trúng mục tiêu vừa bị gío tạt ngang đầu quân bạn,
gây tổn thất nặng nề cho hai đại đội nhảy dù đang xung phong, làm tiêu
tan sức chiến đấu... Cuối cùng các chiến sĩ mũ xanh thuỷ quân lục
chiến của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã làm nên lịch sử. Họ đã dựng lại
lá cờ vàng của miền Nam Việt Nam trên cổ thành vốn đã đẫm máu của vô số
chiến sĩ đã hy sinh vì chính nghiã tự do và dân chủ cho quê hương của
họ.” Đó là lời của một cựu sĩ quan, thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù, một đơn vị tham gia chiến dịch phản công ở Quảng Trị. Tất
cả những chiến công đó là một phần của lịch sử mà không ai có thể xóa
bỏ bởi nó đã được xây dựng bằng xương máu của những người lính Việt Nam
Cộng hoà, trong hoàn cảnh hết sức cam go, cả trong lúc có sự tham dự
trực tiếp của lực lượng Hoa Kỳ, lẫn khi không còn lực lượng này hỗ
trợ. Tuy nhiên, sang năm 1973, tình hình chiến trường Việt Nam
có nhiều thay đổi bất lợi cho phía Việt Nam Cộng hoà. Việt Hà sẽ gởi
đến quý thính giả những diễn biến từ năm 1973 đến năm 1975 trên mặt
trận quân sự và ngoại giao. Mời quý vị theo dõi trong buổi phát thanh
tới. Quỳnh Như tường trình từ Hoa Thịnh Đốn.
|