David Koh
Hãy
quan sát những số liệu
do BBC thu thập, đơn vị
tính bằng đôla Mỹ. Nợ
nước ngoài của chính phủ
Việt Nam vào đầu tháng
3/2011 là 29 tỷ, chiếm
hơn 42% tổng sản phẩm
quốc nội hằng năm. Quốc
gia này đang trải qua
thâm hụt kép, trong cả
thương mại lẫn ngân sách
Nhà nước. Tuy nhiên, rút
từ các số liệu, sẽ thấy
chính phủ Việt Nam có
thể bị phá sản (vỡ nợ).
Dự trữ của chính phủ,
tức tiết kiệm của họ,
chiếm không đầy 50% trị
giá khoản nợ. Nếu bắt
buộc phải thanh toàn bộ
29 tỷ USD nợ này ngay
ngày mai, chính phủ Việt
Nam sẽ không có đủ tiền
để trả. Nếu tất cả các
chủ nợ đòi tiền một lúc,
ngân sách của chính phủ
không đủ tính thanh
khoản để chi trả. Điều
này có thể không xảy ra,
nhưng tồn tại một khả
năng như thế, chẳng hạn
khi đất nước rơi vào một
cuộc khủng hoảng chính
trị như ở Ai Cập vừa
qua, hay một thảm họa
tầm cỡ quốc gia như động
đất tại Nhật Bản tuần
vừa rồi, hoặc một cơn
hoảng loạn đột ngột của
các nhà đầu tư và người
cho vay ngoại quốc.
Tình hình ít có cơ tiến
triển trong ngắn hạn.
Thâm hụt ngân sách vẫn
tiếp tục và chính phủ
lại đang dự liệu thâm
hụt 5% trong tài khóa
này. Thâm hụt mậu dịch
cũng không có dấu hiệu
sớm dịu đi, số liệu
tháng 2 cho thấy thâm
hụt tới gần 1 tỷ USD.
Chính phủ có kế hoạch
giới hạn thâm hụt mậu
dịch năm nay ở mức 18%
kim ngạch xuất khẩu,
tương đương 14,2 tỷ USD.
Nhưng như thế vẫn là
tăng nhẹ so với năm
2010.
Do đó, trong bối cảnh
thâm hụt kép gia tăng,
việc vay nợ thêm có lẽ
sẽ là cần thiết, có tính
đến yếu tố FDI và kiều
hối từ Việt kiều gửi về.
Tuy nhiên, kiều hối lại
đi thẳng vào túi người
dân chứ không vào ví của
chính phủ. Dân chúng có
tài sản trị giá vài tỷ
đôla Mỹ, nằm dưới các
dạng thức tiết kiệm khác
nhau mà chủ yếu là đôla
Mỹ và vàng. Lý do chủ
yếu của việc này tất
nhiên là sự thiếu tin
tưởng vào đồng nội tệ
Việt Nam, cũng như không
tin vào khả năng chống
lạm phát của chính phủ.
Năm 2011, cần 4 tỷ USD
để trả lãi suất tiền
chính phủ nợ nước ngoài.
Khoản này chiếm chừng
12% ngân sách Nhà nước.
Càng ngày, những người
cho chính phủ Việt Nam
vay tiền càng phải tính
đến thu nhập tương lai
và khả năng chính phủ
thu được thuế, coi đó
như những yếu tố quan
trọng quyết định có cho
vay nữa không. Ở khía
cạnh này, những người đi
vay nào nắm quyền tối
thượng (tức là Nhà nước
– ND) thì đều có xu
hướng có lợi thế trước
những người cho vay là
tư nhân; và người ta tự
hỏi phải chăng đó là một
rủi ro đạo đức trên thị
trường tài chính quốc
tế?
Nếu dự trữ ngoại tệ của
chính quyền Việt Nam rớt
xuống dưới mức 4 tỷ USD
cần có hằng năm để trả
lãi suất đi vay, thì khi
ấy điều gì xảy ra? Dự
trữ ngoại tệ của Nhà
nước đã và đang theo
khuynh hướng đi xuống,
kể từ khi khủng hoảng
tài chính bắt đầu ở Việt
Nam vào năm 2008, trước
cả cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Phản ứng của khu vực sẽ
thế nào nếu Việt Nam trở
thành một Iceland hay Hy
Lạp của Đông Nam Á?
Giờ đây, đã có một động
lực buộc phải hạn chế
thâm hụt ngân sách, bằng
cách cắt giảm chi tiêu
của chính phủ. Việc cắt
giảm đã được lên kế
hoạch, tuy nhiên chỉ là
giảm 0,5% so với năm
2010. Cần phải giảm
nhiều hơn nữa, và chính
phủ cùng các nhà lãnh
đạo đảng phải tự làm
gương, cũng như các cơ
quan của họ phải đi đầu
trong vấn đề này. Vài
năm trước đây, người dân
Việt Nam đã từng rất ấn
tượng khi một nguyên thủ
nước ngoài rời Hà Nội
bằng hàng không giá rẻ.
Đối nghịch với đó, trong
các chuyến đi cấp nhà
nước, các vị lãnh đạo
của Việt Nam thường mang
theo hàng đoàn nhân
viên, sử dụng chuyên cơ
của hàng không quốc gia.
Đi lại ít "phong cách”
hơn có thể là một biện
pháp giúp cắt giảm ngân
sách. Các ví dụ khác về
sự lãng phí thì có đầy
rẫy.
Điều mà chính phủ cần
phải làm là thiết chế
hóa công tác điều hành
vĩ mô và ngăn ngừa nạn
lạm chi. Trên tổng thể,
cần ấn định một mức thâm
hụt mà không chính phủ
nào được phép thay đổi
hoặc chi tiêu vượt quá
nếu không được 80% đại
biểu Quốc hội chuẩn y,
và Chủ tịch Nước cũng
phải được phép nghiên
cứu ngân sách nhà nước,
phải có quyền yêu cầu
chính phủ thực thi những
thay đổi mang tính cưỡng
chế, theo luật định. Chủ
tịch Nước cũng phải được
phép phủ quyết thâm hụt
ngân sách nếu ông ta
thấy rằng tỷ lệ 80% đại
biểu Quốc hội phê chuẩn
kia đã không phải vì lợi
ích của quốc gia. Việc
bắt buộc tiết kiệm chi
tiêu ngân sách hàng năm
của chính phủ nên trở
thành một thông lệ.
Cần thể chế hóa cả kiểm
soát đối với những lĩnh
vực cụ thể. Ví dụ, trong
khi lĩnh vực quốc phòng,
y tế và giáo dục không
cần thiết phải bị ấn
định quá chặt, thì ngân
sách dành cho các bộ
ngành khác và các doanh
nghiệp nhà nước phải
được kiểm soát chặt chẽ
và đặt vào một lộ trình
giảm dần trong vòng 5
năm tới, cho đến chừng
nào tình hình tài chính
đã được cải thiện đáng
kể. Trừ phi các doanh
nghiệp nhà nước có tầm
quan trọng chiến lược
đối với an ninh quốc gia,
còn nếu chúng không thể
tồn tại mà không có ngân
sách nhà nước bơm vào,
thì nên thu gọn hết
chúng lại.
Điều nghịch lý là, đây
cũng là thời điểm các
nước tài trợ cho Việt
Nam nên xem xét giảm
viện trợ, dù chỉ là dần
dần, để buộc chính phủ
nước này phải đưa ra
những lựa chọn quyết
liệt hơn đối với vấn đề
ngân sách của họ, cũng
như để đảm bảo Việt Nam
chi tiêu có chừng mực.
Với tình trạng tài chính
hiện nay thì câu chuyện
tăng trưởng của Việt Nam
rất không bền vững và có
thể còn đi giật lùi.
David Koh là nghiên cứu
viên cao cấp, Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á.
Người dịch: Đan Thanh
Bản tiếng Việt ©
Ba Sàm
2011