Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2012-04-08
Mới đây 2 tờ báo uy tín của Anh "The Economist” và của Mỹ
"The Forbes” có những bài viết nhận xét về tình hình kinh tế
Việt Nam thời gian gần đây.
RFA photo
Sàn giao dịch bất động sản BECAMEX tại Hà Nội.
Qua đó, những kết luận cho thấy vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam bị giảm sút và Đảng Cộng sản Việt Nam gắn quá chặt
với những nguyên tắc của mình khiến nền kinh tế bị chững lại.
Ghi nhận lại thông tin, Vũ Hoàng có bài tổng hợp sau đây.
Với tiêu đề "Việt Nam: Từ anh hùng trở thành số không”
trên tạp chí The Economist hôm 31/3, tác giả nhận xét rằng, chỉ
vài năm trước đây, Việt Nam là một trong những nước đang phát
triển hút tầm ngắm của cả thế giới, vậy nhưng hôm nay Việt Nam
lại tụt hậu thê thảm. Trong đó, bài báo chỉ ra lạm phát của
Việt Nam xếp hàng cao nhất Châu Á, hàng ngàn doanh nghiệp bị
phá sản, giá bất động sản lao dốc và hàng loạt doanh nghiệp
Nhà nước chới với vì những khoản nợ xấu. Qua cách đánh giá
của bài báo, người ta nhận thấy một Việt Nam với những thay
đổi đột ngột theo chiều hướng xấu đi, mặc dù, giới lãnh đạo
đã thấy được điều đó, nhưng đi từ sự nhận thức cho đến phải
làm gì là quãng đường quá xa.
Mất niềm tin
Hàng chục ngàn doanh nghiệp giải thể hay ngừng hoạt động riêng trong quí 1/ 2012. RFA/AFP photo.
Trong khi đó, một báo cáo khác của hãng đánh giá kinh doanh quốc tế Grant Thorton cho biết, 3 tháng đầu năm nay, niềm tin doanh nghiệp ở Việt Nam bị giảm mạnh bất chấp đã có những chuyển biến vĩ mô.
Lời nhận xét này rơi vào đúng thời điểm khi niềm tin doanh
nghiệp trên phạm vi toàn cầu bắt đầu khởi sắc. Ông Kent
Atkinson, giám đốc Grant Thorton thừa nhận, thật không vui khi
thấy xu hướng niềm tin doanh nghiệp ở Việt Nam không cùng chiều
với cải thiện của thế giới, các hoạt động hỗ trợ vốn vay,
tình trạng thiếu lao động kỹ năng, quan liêu và đặc biệt là
khả năng tiếp cận tài chính vẫn là những rào cản đối với
niềm tin doanh nghiệp tại Việt Nam.
Sau gần một năm thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ,
nhưng lạm phát chốt lại cuối năm ngoái vẫn ở mức 20%. Lãi
suất cho vay ra tại các ngân hàng đã có lúc được đẩy lên tới
xấp xỉ 25%, và với chi phí kinh doanh đó thì khó có một doanh
nghiệp nào có thể trụ nổi. Từ đó dẫn tới các doanh nghiệp
khai phá sản hoặc tạm ngưng hoạt động là khó tránh khỏi, và
con số gần 80,000 vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều chủ doanh
nghiệp Việt Nam.
Mặc dù, bước sang quí 1 năm nay, với động thái giảm 1% lãi suất, được coi là nỗ lực linh hoạt
từ phía Chính phủ, nhưng các doanh nghiệp vẫn cho rằng "liều
thuốc” này không thể cứu được họ. Chỉ trong vòng 3 tháng đầu
năm, lại có đến gần 12,000 doanh nghiệp xin phá sản hoặc ngưng
nộp thuế kinh doanh. Trong cuộc họp thường kỳ hôm 1/4 của Thủ
tướng với các thành viên chính phủ, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ Vũ Đức Đam phải thừa nhận việc có nhiều doanh
nghiệp giải thể hoặc phá sản phần nào cũng thể hiện sản
xuất, kinh doanh gặp khó khăn nhất là với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Trao đổi với chúng tôi, TS Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng
Nghiên cứu, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Hà Nội
cho rằng trở ngại nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam,
khiến tình trạng doanh nghiệp phải đóng cửa vẫn là vốn tín
dụng, ông nói:
Rõ ràng đó là một dấu hiệu không tốt, chúng tôi đã đưa ra
nhiều bài phân tích nói về những tín hiệu đáng báo động,
đúng hơn là những tín hiệu lo ngại về khu vực doanh nghiệp
đặc biệt là xu hướng các doanh nghiệp dừng hoạt động hoặc
không nộp thuế.
TS Nguyễn Minh Phong
"Rõ ràng đó là một dấu hiệu không tốt, chúng tôi đã đưa
ra nhiều bài phân tích nói về những tín hiệu đáng báo động,
đúng hơn là những tín hiệu lo ngại về khu vực doanh nghiệp đặc
biệt là xu hướng các doanh nghiệp dừng hoạt động hoặc không
nộp thuế. Theo giải trình của Bộ Đầu Tư, đó chủ yếu là các
doanh nghiệp nhỏ, một số doanh nghiệp gắn liền với hoạt động
ở ngành thủy sản.
Tôi cũng đồng ý rằng, trong nửa đầu năm 2012, các doanh
nghiệp Việt Nam đang ở tình trạng khó khăn nhất trong nhiều năm
gần đây, sự chịu đựng đã kéo dài, sự hỗ trợ của doanh nghiệp
đã đến hạn. Doanh nghiệp Việt Nam đang phải tiếp nhận nguồn
vốn chi phí cao nhất thế giới, trên dưới 20% là quá sức chịu
đựng của doanh nghiệp và đây là nguyên nhân quan trọng nhất
khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn, vì thế số lượng các doanh
nghiệp gặp khó khăn cũng như không hoạt động đang có xu hướng
tăng lên.”
Mặc dù vậy, TS Phong cho rằng Việt Nam cũng nhận thức được
khó khăn của các doanh nghiệp, do đó, Chính phủ đang lên kế
hoạch giảm, chậm hoặc miễn thuế và áp trần cho vay để các
doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn.
Đó là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, vậy còn với doanh nghiệp Nhà nước thì sao? Quay trở lại bài viết "Việt Nam: Từ anh hùng trở thành số không”
tác giả chỉ ra những tồn tại như hiện tượng tham nhũng, sự
thiếu minh bạch và tình trạng lãng phí của khối doanh nghiệp
Nhà nước vẫn là những căn bệnh kinh niên. Người viết nhắc lại
vụ ra tòa của Vinashin hôm mới đây 27/3, theo đó, một doanh nghiệp
Nhà nước lớn bậc nhất của Việt Nam, từng được các chính trị
gia khuyến khích và mở rộng, nhưng cuối cùng ban điều hành bị
kết tội quản lý yếu kém, gây hậu quả kinh tế nghiêm trọng và
bị trừng phạt với bản án cao nhất 20 năm tù cho ông Phạm Thanh
Bình, nguyên tổng giám đốc.
Đang mất dần sức hút
Một công ty sản xuất đế giày phải đóng cửa, máy móc để phơi nắng phơi mưa. Photo Nam Duong.
Dưới bình diện dòng vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào
Việt Nam, tờ báo uy tín của Mỹ The Forbes mang tựa đề Việt Nam đang mất dần sức hút,
bài viết cho thấy một bức tranh ảm đạm về tình hình FDI tại
Việt Nam, trong đó tổng số vốn được thực thi cả năm vừa rồi
sụt giảm đến 35% so với năm trước đó, dừng lại ở mức hơn 11
tỉ đô la. Và nguyên nhân chính được tác giả chỉ ra là do lạm
phát, giá nhân công tăng và chuyện đình công. Bài báo mô tả, kể
từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa năm 1987, đã có
hàng ngàn doanh nghiệp nước ngoài đến đây làm ăn, thế nhưng, môi
trường kinh doanh ngày càng trở nên khó khăn, từ năm 2008 cho
tới nay, lạm phát đã trở thành nỗi ám ảnh.
Hơn nữa chi phí lao động của Việt Nam từng được coi là lợi
thế rẻ đã không còn là sức hút giới đầu tư nước ngoài, khi
những cuộc biểu tình đòi tăng lương của người lao động tăng đột
biến theo cấp số nhân trong vòng 3 năm trở lại đây, nếu năm 2009
chỉ khoảng 200 vụ, năm 2010 là hơn 400 vụ, thì 2011 là gần
1,000 vụ. Thậm chí, trong báo cáo năm 2012 của Ngân hàng Thế
giới có tên Doing Business, môi trường kinh doanh của Việt Nam còn
bị tụt 11 bậc so với năm 2008, xuống vị trí 98 trên tổng số
183 quốc gia trong bảng xếp hạng.
Nhận xét chung về môi trường đầu tư Việt Nam thời gian gần
đây, TS Lê Đăng Doanh không ngạc nhiên với những gì đang diễn ra:
Các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam đã nêu
lên nhiều kiến nghị về môi trường đầu tư và kinh doanh tại
Việt Nam không những không được cải thiện mà còn xấu đi.
TS Lê Đăng Doanh
"Việc thực thi các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
đã có sự chậm trễ rõ rệt do năng lực của nhà đầu tư, năng
lực thực hiện của phía Việt Nam hay là khả năng giải phóng
mặt bằng… Các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam
đã nêu lên nhiều kiến nghị về môi trường đầu tư và kinh doanh
tại Việt Nam không những không được cải thiện mà còn xấu đi
theo như họ nói, lạm phát tăng cao, các chi phí đầu vào tăng lên
và một loạt các quy định đối với nhà đầu tư của chính phủ
được đưa ra mà không có sự tham khảo của các nhà đầu tư, người
ta đã viện dẫn một loạt các quy định như là hạn chế các
cảng để nhập khẩu, như là khâu thủ tục về lao động nước
ngoài…”
Dường như màu tối là gam chủ đạo cho bức tranh doanh nghiệp
tại Việt Nam thời gian qua, với cái bóng của lạm phát bao
trùm. Nhưng phải chăng lạm phát là nguyên nhân duy nhất? Câu trả
lời là không, vì lạm phát chỉ là sản phẩm của cả một quá
trình ra quyết định từ các cấp điều hành. Theo ông Jonathan
Pincus, một chuyên gia giảng dạy chương trình kinh tế Fullbright
tại Việt Nam cho rằng, đối với các vấn đề kinh tế, Việt Nam
thường có xu hướng cho rằng đó là ảnh hưởng của toàn cầu thay
vì thừa nhận những nguyên nhân nội tại như tham nhũng, quyết
định đầu tư tồi của các doanh nghiệp nhà nước và năng lực
quản lý kinh tế vĩ mô.
Lời giải cho bài toán kinh tế Việt Nam sẽ phải bắt đầu từ
gốc gác đó là quá trình ra quyết định quản lý từ cấp trung
ương, thế nhưng việc này cũng không dễ dàng thực hiện vì quyền lợi trong kinh doanh và quyền lực trong chính trị phải chăng vẫn luôn đi kèm?
|