Yếu
tố “xung đột” về lợi ích trong bài toán giữ rừng có vẻ như không phải
là câu chuyện riêng tư ở rừng U Minh. Tại một địa phương, khi cán bộ
tuyên truyền nói với bà con, phá rừng sẽ làm cho môi trường và con
người chết dần. Bà con hiểu và nhất trí với cán bộ. Cán bộ hỏi, “vậy
sao vẫn còn phá rừng?”. Bà con nói, “thưa cán bộ, phá rừng thì chết
dần, nhưng không phá rừng, không có cái ăn thì vợ con mình chết liền”.
Giữ rừng là quyết định của những nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược.
Nhưng, câu chuyện ở U Minh cho thấy, “chiến lược” sẽ không thể nào đứng
được, nếu như khi ban hành chính sách đã không tính đến bữa cơm cho vợ
con của những người ở rừng.
Quyết
định 33, ngày 30-9-2008 của Bộ Y Tế, trở thành câu chuyện đàm tếu của
báo chí trong và ngoài nước. Ngoài những yếu tố hài hước như “ngực lép”
hay “thấp bé, nhẹ cân” không được lái xe gắn máy, đây còn là một ví dụ
rất điển hình về quy trình ban hành chính sách. Chỉ riêng việc quyền đi
lại và làm việc của hàng triệu người dân bị vô hiệu bởi một văn thư cấp
Bộ đã cho thấy, không chỉ phải sửa đổi một số nội dung phi lý trong
quyết định ấy mà còn phải xem xét lại cả quy trình ban hành nó và thẩm
quyền pháp lý của các cơ quan được đưa ra những loại văn bản này.
Theo
Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, được Quốc hội thông qua
năm 1996 và sửa đổi năm 2002, thì với những điều luật cần có sự hướng
dẫn bởi các thông tư, nghị định thì các cơ quan soạn thảo phải trình
ngay các bản dự thảo thông tư, nghị định cho Quốc hội trước khi luật ấy
được thông qua. Nhưng, quy định này dường như rất ít khi được chấp hành
và hệ lụy của nó là vô cùng to lớn. Nghị định ban hành theo luật lẽ ra
chỉ là những văn bản hướng dẫn quy trình thực hiện những quy phạm được
ban hành trong luật và các thông tư (của các bộ) chỉ hướng dẫn thêm một
vài thủ tục. Nhưng, trong lịch sử ban hành các văn bản quy phạm đã có
không ít lần, chính những quy định trong các thông tư, nghị định mới
thực sự là “luật” chứ không phải là những “luật khung” mà Quốc hội
thông qua. Thậm chí, có những văn thư cấp bộ đã đụng chạm tới những
quyền căn bản như quyền tự do đi lại, tự do cư trú… được minh định
trong Hiến pháp.
Vì
sao, Quyết định 33 đã được dự thảo tới 11 lần, được hỏi ý kiến các bộ
ngành và 64 tỉnh thành nhưng chỉ khi nó được công bố, Bộ Y tế mới nhận
ra rằng “không hợp”. Không chỉ vì các kiến thức về sức khỏe, Quyết định
33 đụng chạm tới “quyền” đi xe gắn máy của hàng triệu con người. Quyền
lợi của hàng triệu con người ấy không thể chỉ được quyết định thông qua
thủ tục của một văn thư hành chánh. Nó phải được đưa ra bàn thảo dựa
trên những quyền căn bản của Hiến pháp hiện hành.
Nếu
như Quyết định 33 được ban hành theo đúng quy trình ban hành một đạo
luật, thì một trong các tác giả của nó, Cục phó Cục Quản lý Khám và
Chữa bệnh Trần Quý Tường đã không phải “phỏng đoán”: Đối tượng đó (những người ngực lép, thấp bé) không nhiều (Pháp
Luật TP HCM), mà phải khảo sát để cho thấy thực sự con số đó là bao
nhiêu. (Dựa trên số liệu nghiên cứu của mình, TS Nguyễn Văn Tuấn cho
rằng, sẽ có khoảng 270 nghìn nam và 5 triệu nữ sẽ không đủ tiêu chuẩn
đi xe máy nếu áp dụng những quy định đó). Nếu như, làm đúng quy trình
phân tích chính sách, Bộ Y tế sẽ nhận thấy, các dữ liệu thống kê không
ghi nhận tình trạng tai nạn giao thông xảy ra do “thấp bé, nhẹ cân” lên
tới mức phải điều chỉnh bằng cách tước quyền đi xe của họ. Nếu Quyết
định 33 được nhận thức đúng là một đạo luật thì khi dự thảo, nó đã phải
được để cho nhân dân tham gia ý kiến chứ không phải đợi đến sau khi
“ký”, một vị Thứ trưởng Bộ Y tế mới “lẫy”: nếu “không hợp lòng dân thì
thôi”.
Những
người đã từng đi thi lấy bằng lái xe ở nhiều nước phát triển sẽ thấy,
thí sinh không phải đi khám bác sỹ mà chỉ được phát một tờ khai về sức
khỏe, cơ quan cấp bằng sẽ có một kiểm tra nhỏ về mắt để xem người sắp
có bằng lái ấy có khả năng nhìn thấy các biển chỉ đường. Trong khi đó,
một người Việt Nam khi đi thi hoặc đổi bằng lái xe (nếu QĐ 33 có hiệu lực- theo Tuổi Trẻ)
phải lấy được “Giấy chứng nhận sức khỏe người điều khiển phương tiện
giao thông cơ giới” do Bộ Y tế hướng dẫn gồm 40 trang giấy với 20 chữ
ký. Không phải ở các nước phát triển người ta không coi trọng vấn đề an
toàn giao thông như ta, mà ở đó, họ căn cứ những cơ sở dữ liệu được
điều tra phân tích, để chỉ yêu cầu người dân làm những điều cần thiết,
thay vì làm những gì được nghĩ ra từ các quan chức ngồi quá lâu trong
các văn phòng.
Bảo
vệ an toàn giao thông hay bảo vệ rừng đều nhằm bảo vệ cho con người một
môi trường sống tốt. Không thể vì an toàn thuần túy để ra những quy
định phi lý, cũng như, không thể vì rừng mà để đói cho dân. Luật hay
chính sách không chỉ nhằm giải quyết “việc”, nó phải vươn tới một điều
lớn hơn là phục vụ con người.
Huy Đức