Bàn về lá thư Hồ Chí Minh viết gửi bà Sô Dít, một phụ nữ thân cộng
người Pháp lúc đó đang nắm một vai trò trong chính phủ, sau khi thất
bại tại hội nghị Fontainebleau vào tháng 9/1946. Thư này được đăng
trong cuốn "Hồ Chí Minh - Một Nửa Nhân Loại" tác giả Trần Khuê và
Nguyễn Thị Thanh Xuân. Nội dung lá thư ông Hồ cầu khẩn bà Sô Dít hãy
giúp ông bằng mọi cách để chính phủ Pháp công nhận "Chính Phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa" được nằm trong liên hiệp Pháp. Đây được coi như một
cố gắng gượng gạo cuối cùng của Hồ Chí Minh, mặc dù biết phần chắc
chính phủ Pháp đã thuộc về phe hữu, tức chống cộng, ra mặt không ủng hộ
như trước, và tương lai rất gần sự xung đột giữa hai bên trở nên nặng
nề hơn.
Hồ Chí Minh viết: " Theo như tạm ước ký ngày 15-9 vừa qua giữa chính
phủ Pháp và chính phủ Việt Nam thì hai bên phải đình chỉ mọi cuộc xung
đột. Về phần tôi, tôi sẽ hết sức mình để cho điều khoản này cũng như
các điều khoản khác được thi hành một cách trung thực...Tôi mong rằng
về phía những người bạn Pháp của tôi, họ cũng sẽ hành động như
vậy...Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc lập của chúng tôi thì tức
khắc nước Pháp sẽ tranh thủ được trái tim và tình cảm của tất cả người
Việt Nam. Và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng khối liên hiệp Pháp, một
khối liên hiệp tự do, vững chắc và anh em...Tán thành tinh thần bốn bể
là anh em, cho nên tôi yêu mến..." Lá thư đề ngày 22 tháng 9 năm 1946,
tức chỉ 7 ngày sau khi tạm ước được ký.
Trên thực tế thì tạm ước Modus Vivendi ký ngày 14/9/1946 rạng ngày
15/9/1946 giữa Hồ Chí Minh và bộ trưởng thuộc địa Marius Moutet không
phải giữa chính phủ Pháp và chính phủ Hồ Chí Minh, bởi vì Moutet chỉ là
một viên chức của Bộ Thuộc Địa, không phải đại diện của quốc hội Pháp.
Hồ Chí Minh trong 4 tháng ở bên Pháp (từ cuối tháng 5 đến 14/9/1946) đã
vận động ngoại giao với các thành phần, nhất là các phe nhóm thuộc các
đảng phái thân cộng như các ông Sainteney, Leclerc, Raymond Aubrac,
Moutet...Hồ Chí Minh khi viết lá thư này đã tự đưa ra mâu thuẫn. Nếu
chính phủ Pháp đã ký tạm ước một cách danh chánh ngôn thuận thì tại sao
ông còn phải viết thư cầu cứu bà Sô Dít? Thật ra, ông Hồ tạo ra hiện
tượng này là để "câu giờ" (đúng như sách báo Đảng đã viết). Mặt khác,
khi trở lại Hà Nội, ông mang về cái "tạm ước" giả tạo này để làm tiếng
vang trong dân chúng, cho người ta tưởng như đó là thật - Việt Minh đã
nằm trong liên hiệp Pháp rồi.
Đến đây có lẽ người ta tự hỏi: Nhật đã đảo chánh Pháp vào 3/1945. Pháp
đã ra khỏi Việt Nam và quốc trưởng Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập
trước quốc dân. Nhưng rồi không lâu, Nhật rút khỏi Việt Nam và đầu hàng
quân đội liên hiệp dẫn đầu bởi Hoa Kỳ, ngày 19/8/1945, quốc tế cộng sản
Nguyễn Aí Quốc (Hồ Chí Minh) lãnh đạo tập đoàn Việt Minh cướp chính
quyền. Việt Minh lúc này vẫn còn lên án Pháp đồng thời đổi qua thân Hoa
Kỳ (xanh vỏ đỏ lòng). Khi không lợi dụng được Hoa Kỳ mặc dù cố gắng rất
nhiều, Hồ đổi chiến thuật và quay qua thân Pháp (chính phủ thân cộng
Pháp) để mong được sự công nhận và hỗ trợ. Như vậy Hồ lấy lý do gì để
biện hộ cho tội thân Pháp thay vì chống Pháp? Thế mà bấy lâu nay hằng
triệu cuốn sách của Đảng lúc nào cũng cho là Hồ có công chống Pháp
giành độc lập. Ngay từ đầu, nếu Hồ Chí Minh không ký Hiệp Ước Sơ Bộ
ngày 6/3/1946 với Pháp (thân cộng) mang Pháp về tàn sát đồng bào, sát
hại những thành phần chống Pháp như Quốc Dân Đảng, thì đâu có chiến
tranh xảy ra, đâu có hằng chục ngàn thanh niên miền Bắc phải bị thiêu
thân trong trận chiến 1946-1954. Bộ đội Việt Minh đâu biết rằng chính
phủ Pháp khi đã có chiến tranh với Việt Minh là sự tuyên chiến giữa hai
phe cộng sản và không cộng sản. Hồ Chí Minh khéo léo lợi dụng lòng yêu
nước của toàn dân để hô hào kháng chiến chống Pháp "xâm lược." Nhưng
hãy tự hỏi, chính ông Hồ đã viết thư yêu cầu bà Sô Dít giúp ông làm mọi
cách để mong Pháp trở lại kia mà? Ông Hồ mong Pháp và chính phủ của ông
được nằm trong "liên hiệp Pháp" cùng Pháp hợp tác có lợi đôi bên kia
mà. Nếu Pháp đã là thực dân hay xâm lược thì tại sao không bằng lòng
với Hồ Chí Minh nằm trong "liên hiệp Pháp" mà lại tuyên chiến với Hồ
Chí Minh? Rất tiếc lúc này chỉ có một số ít đảng phái quốc gia biết ý
đồ của Hồ Chí Minh mà thôi, họ lại bị lợi dụng và thậm chí bị tiêu diệt.
Trở lại với ngày Hồ từ Pháp trở về. Nếu ông Hồ khi về nước nói ngay ra
là chính phủ Pháp đã thay đổi thành phần, đã quay lưng lại chống cộng
sản thì rất nguy hiểm cho tập đoàn của ông. Lúc này các thành phần quốc
gia đang có thái độ chống đối mạnh mẽ từ sau vụ Hồ Chí Minh ký hiệp ước
Sơ Bộ ngày 6/3/1946 với phe chính phủ Pháp thân cộng, mang 15 ngàn quân
về chiếm đóng, đồng thời dùng Pháp để tiêu diệt các đảng phái quốc gia.
Nếu người quốc gia biết chính phủ Pháp lúc này chống cộng sản thì chắc
chắn là một lợi thế cho công cuộc đương đầu với tập đoàn cộng sản.Trong
phái đoàn qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau do Phạm Văn Đồng hướng dẫn
có một đại diện các khối chính đảng quốc gia. Nhóm này có tên Liên
Việt, gồm toàn cán bộ cộng sản, ngoại trừ cụ chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng.
Mục đích của Việt Minh là để làm lắng dịu sự chống đối của các khối
quốc gia trong nước, ngay cả tại miền Nam. Vì sợ âm mưu bị tiết lộ, nên
Hồ Chí Minh phải đi theo ngã riêng qua Pháp là vậy. Trong "Hồ Chí Minh
- Chiến Sĩ Cách Mạng Quốc Tế" tác giả Phan Ngọc Liên -Trịnh Vương Hồng,
trang 310: "...Ngày 16-4-1946, khi phái đoàn lên đường, Người dặn dò:
"...Phải làm tốt ba việc là đoàn kết, cẩn thận, làm cho người Pháp hiểu
ta..."" Hai chữ "đoàn kết" của Hồ dùng không gì hơn là khéo léo, mềm
mỏng, bén nhạy, lôi cuốn đối phương nghe theo mình.
Một sử liệu khác. Ban Giảng Huấn Việt Tộc, trụ sở tại Paris, Pháp, tài
liệu ghi về "Biến Cố 19-8-45" có đoạn: "Ngay tối hôm đó, 2 giờ sáng
ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh đích thân đến tư thất ông Bộ Trưởng Moutet
để xin ký: ưng thuận các điều khoản của người Pháp đưa ra. Ông Moutet
tiếp trong bộ quần áo ngủ, và hiệp định được ký trên đầu giường của ông
và bà Bộ Trưởng Moutet. Trước khi ra đi thì Hồ chủ tịch có nói với một
câu: Tôi đã ký bản án tử hình cho dân tộc tôi....Về dữ kiện này, những
ai ở Paris có thể tìm kiếm trong các thư viện, những báo chí thời đó
như Figaro, Le Monde hay Paris Match...thì sẽ thấy rõ như ban ngày."
Như vậy tài liệu trên đã chứng minh rõ tâm địa của ông Hồ.Ông vì quyền
lợi của quốc tế cộng sản và của phe cánh mà có hành động phản quốc như
trên. Trong tạm ước Modus Vivendi cũng như hiệp ước Sơ Bộ trước đó, nội
dung tương tự giống nhau, cũng là những điều khoản chia chát quyền lợi
giữa Pháp thân cộng và Việt cộng. Lúc này là giai đoạn ông Hồ rất cần
đồng minh làm thế che chở sau khi ông bị Hoa Kỳ bỏ rơi, mặc dù ông tốn
nhiều công sức trước ngày 2/9/45 yêu cầu Hoa Kỳ nhìn nhận. Bản chất và
bản thân của ông Hồ và tập đoàn là cộng sản, nhưng vì quyền lợi của
Đảng mà ông lèo lái nghiêng ngả, khi thì chạy theo phe này, khi thì nạp
mình cho phe khác, mập mờ ẩn ẩn hiện hiện...Rõ ràng nhất là việc ông
bằng lòng với Pháp thân cộng mang 15 ngàn quân Pháp về Hải Phòng rồi
tiến lên Hà Nội để đánh lại các đảng phái quốc gia.
Người Pháp đã ra đi sau vụ Nhật đảo chánh Pháp vào 3/1945. Pháp trở lại
Việt Nam. Máy bay Mỹ chở Sainteney về Hà Nội ngay sau khi Nhật đầu hàng
và Việt Minh cướp chính quyền 2/9/1945. Tại sao Mỹ giúp Pháp trở lại VN
ngay lúc này? Nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, MacNamara, trong cuốn
In Retrospect, trang 31, ông viết: "I knew that Ho Chi Minh had
declared Vietnam's independence after Japan's surrender but that the
United States had acquiesced to France's return to Indochina for fear
that a Franco-American split would make it harder to contain Soviet
expansion in Europe." Dịch nghĩa câu trên: "Tôi biết rằng Hồ Chí Minh
đã tuyên bố Việt Nam độc lập sau khi Nhật đầu hàng nhưng Hoa Kỳ đã thừa
nhận sự trở lại Đông Dương của Pháp bởi vì Hoa Kỳ lo sợ rằng sự tách
rời của Pháp và Mỹ có thể sẽ khó khăn hơn để ngăn chặn sự bành trướng
của Liên Sô tại Âu Châu." Như vậy luận điệu cho rằng Pháp trở lại Việt
Nam để thiết lập chế độ thực dân là không tưởng và không có bằng chứng
gì cụ thể. Ông McNamara cho rằng Pháp cần thiết trở lại Đông Dương,
không phải Việt Nam, làm bàn chắn, và có sự liên kết thừa nhận của Hoa
Kỳ cũng chỉ vì để kiềm hãm làn sóng đỏ của thế giới cộng sản. Nhưng rồi
chỉ khoảng 6 tháng sau Hồ Chí Minh chính thức mang Pháp vào Việt Nam
qua Hiệp Ước Sơ Bộ.
Trong tình hình tranh tối tranh sáng này, tại miền Nam thì tổng thống
De Gaulle cử Leclerc về phụ trách quân đội, còn D'argenlieu làm Thượng
Sứ kiêm Tham Mưu Trưởng lực lượng Pháp ở Đông Dương. Như trình bày
trên, vai trò của Pháp lúc này không phải với tư cách thực dân mà với
nhiệm vụ khác hơn, bởi vì trong giai đoạn này các nước thuộc địa trong
vùng đang có phong trào đòi độc lập. D'argenlieu được coi như không
phải là phe ủng hộ độc tài cộng sản. Thế nên đã có một trận ấu đả giằng
co giữa Phạm Văn Đồng và D'argenlieu tại hội nghị Fontainebleau khi hai
bên không đồng ý các điều khoản trong hiệp ước Sơ Bộ. D'argenlieu nhất
quyết không để Nam Kỳ bị lọt vào tay Hồ Chí Minh như trong hiệp ước đề
ra gọi là "thống nhất ba kỳ. "Sử Địa 12ab," 1974, nhà xuất bản Trường
Thi, Saigon, trang 78, có ghi: "Ngay khi khai mạc Đồng chỉ trích nẩy
lửa D'argenlieu. Hai bên bàn cãi hoàn toàn mâu thuẫn."
Sách báo cộng sản, nhất là các bài và câu hỏi hướng dẫn học sinh sinh
viên, khi viết tại sao Hồ Chí Minh ký hiệp ước Sơ Bộ mang Pháp về cai
trị lần hai, đã xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn. Họ cho rằng đó
là "một biện pháp đúng đắn và sáng tạo, nhằm giúp ta tạm hòa với Pháp,
nhanh chóng đuổi nhanh 20 ngàn quân Tưởng về nước..." Thật ra, sau khi
thế chiến thứ hai kết thúc có hội nghị Posdam do Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa
đồng ý về việc buộc Nhật phải đầu hàng, và việc giải giới quân Nhật tại
Việt Nam: Anh đảm nhiệm ở miền Nam, còn quân Trung Hoa (Tưởng Giới
Thạch) lo liệu ở miền Bắc.
Cộng sản cho rằng ông Hồ mang Pháp về là để thay thế quân Tưởng vì cho
rằng quân Tưởng sẽ "xâm lăng" miền Bắc để cai trị. Kế hoạch thâm hiểm
này được ghi ra trong phần 2 của hiệp ước Sơ Bộ - "Việt Nam sẵn sàng
thân mật tiếp đón quân đội Pháp thay thế quân đội Trung Hoa theo những
hiệp ước quốc tế đã ký kết." Trên thực tế thì chưa có sử liệu nào ghi
Pháp phải thay thế quân đội Trung Hoa, chỉ thấy ông Hồ và Pháp thân
cộng đặt ra trong hiệp ước Sơ Bộ mà thôi. Cũng như trong phần 1, hiệp
ước ghi, trích từ "Sử Địa 12ab": "Pháp công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài
chánh riêng trong liên bang Đông Dương và trong liên hiệp Pháp. Pháp
thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý về sự thống nhất ba kỳ." Lại
cũng là luận điệu của người làm ra hiệp ước theo ý của họ. Cuộc trưng
cầu dân ý về sự thống nhất ba miền xảy ra hồi nào và ở đâu? Người dân
miền Nam có biết chút gì về vấn đề thống nhất này không? Chắc chắn là
không. Miền Nam đã có chính phủ tự trị. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh được
bầu làm chủ tịch lâm thời Cộng Hòa Nam Kỳ, không liên hệ gì với phe
cánh cộng sản của Hồ Chí Minh. Như trình bày trên, ông D'argenlieu đã
chống đối kịch liệt khi biết Hồ đã ghi ra như thế trong hiệp ước Sơ Bộ.
Trở lại việc Hồ Chí Minh ký tạm ước Modus Vivendi, đêm 14 tháng 9, 1946
(có sách ghi tạm ước 14/9/1946), ông ta đã tự thú nhận trước mặt Moutet
là "Tôi đã ký bản án tử hình cho dân tộc tôi!" Tại sao Hồ Chí Minh biết
mình là kẻ có tội, xem vận mạng dân tộc như một trò chơi mà vẫn cứ làm?
Ngay lúc Hồ thoát ra câu nói ấy, chắc chắn ông đã mường tượng hình ảnh
đau thương của đồng bào ông, cảnh tượng chiến tranh kinh hoàng, chết
chóc xảy ra... Hồ Chí Minh vẫn một mực đi theo con đường đã chọn. Người
quốc tế cộng sản Hồ Chí Minh không thể toàn mạng nếu không phục tùng
chỉ đạo của đàn anh Nga Tàu. Kỷ luật sắt ông đã nằm lòng sau nhiều năm
được huấn luyện làm người cộng sản. Hơn nữa, ông đang lãnh đạo một tập
đoàn, và treo vào cổ dân miền Bắc một chế độ ngoại lai với đầy mỹ từ
cao đẹp, trong đó có không ít người ủng hộ, dựa vào giáo điều từ Marx,
Lenin, Stalin, Mao, ông không ngần ngại làm kẻ sát nhân để đạt được mục
đích.
1. Hồ Chí Minh biết tạm ước này chỉ là một cách "câu giờ" mang về
che mắt dân chúng và các thành phần "liên hiệp" người quốc gia. Nếu tạm
ước thật sự có giá trị thì kết quả cũng vẫn là chiến tranh, bởi vì đó
là một hình thức cấu kết với ngoại bang, cỗng rắn cắn gà nhà. Chính Hồ
cũng tự mình nói tạm ước là bản án tử hình cho dân tộc ông mà ông đã
ký, bởi ông không thể trở thành người quốc gia yêu nước, mà ông phải
dùng bất cứ phương tiện gì dù tàn độc đến đâu để thực hiện mục tiêu đề
ra (cứu cánh biện minh cho phương tiện). Cứu cánh hay mục đích đó là
nhuộm đỏ miền Bắc, và sau đó cả nước Việt Nam, cùng tiến lên nhuôm đỏ
cả Đông Dương và toàn thế giới để đến đại đồng...
2. Trên thực tế thì quốc hội Pháp đang được nắm quyền bởi phe
không thân cộng (cộng sản gọi là phe hữu) nên dù muốn dù không Hồ Chí
Minh vẫn là kẻ đối nghịch với Pháp, nên chiến tranh cũng không thể
tránh khỏi. Lúc này khối cộng sản tại Đông Âu đang hoành hành và là mối
đe dọa khủng khiếp cho khối tự do. Việc Mỹ ủng hộ và cung cấp súng đạn
cho Pháp đánh cộng sản tại Á Châu là điều cần thiết.
Ngày 19 tháng 12, 1946, Hồ Chí Minh viết "Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến." Ông viết: " Không! chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ." Đây là một sự
ngụy biện trắng trợn. Hồ không dám nói ra sự thật tại sao Pháp lại
chống ông ta, và nguyên do của cuộc chiến tranh này. Ông lại ngụy biện
với chiêu bài Pháp "xâm lược" để nung đúc lòng tòan dân đứng lên kháng
chiến. Ông kêu gọi toàn dân "hy sinh tất cả" ngụy dưới từ yêu nước để
lùa toàn dân vào cuộc chiến, nhất là rất nhiều thanh niên đã mất mạng
trong cuộc chiến 1946-1954, với chiến thuật biển người.
Tóm lại cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất tại Việt Nam xảy ra từ
12/1946- 5/1954 phải gọi là cuộc chiến giữa hai phe cộng sản và quốc
gia, trong đó khối cộng sản, bắt đầu xuất hiện trên chiến trường sau
thế chiến thứ hai, là mối đe dọa của phe tự do. Vì quyết tâm thực hiện
mục tiêu của quốc tế cộng sản đề ra mà Hồ Chí Minh đã tạo ra nguyên
nhân của cuộc chiến. Sau đó Hồ lại dùng chiêu bài "chống Pháp" để lùa
người yêu nước vào lò lửa chiến tranh, và tiếp theo họ bị lùa vào quỹ
đạo đỏ. Hồ Chí Minh đã biết trước, như bài học thuộc lòng, đó là: muốn
cướp chính quyền thì phải dùng bạo lực, phải tạo chiến tranh. Bài học
này có phải được rút tỉa từ những kinh nghiệm lịch sử của phe cộng sản.
Lenin cướp chính quyền bên Nga 1917, và liền sau đó lãnh đạo Bolshevic
của Lenin đã ký với Đức hiệp ước Brest - Litovst, sẵn sàng nhượng bộ
một số đất đai cho Đức để mong sự hỗ trợ sau này. Có quan niệm cho rằng
hiệp ước Sơ Bộ 6/3/1946 có mục tiêu tương tự: làm cho Pháp thân cộng
chính thức công nhận "chính phủ" vừa cướp được, và từ đó đặt nền móng
cho chế độ, song song với việc giúp sức của Pháp; nhưng cuối cùng thì
sự liên kết đã tan rã vì quốc hội Pháp từ 5/1946 đã thay đổi thành phần
tức do phe chống cộng lãnh đạo.
Không gì chứng minh trung thực cho bằng lấy lời của Hồ Chí Minh về tội
bán nước. "Hồ Chí Minh - Chiến Sĩ Cách Mạng Quốc Tế" trang 310 ghi:
"Các loại kẻ thù của cách mạng trong và ngoài nước đều mong muốn chính
quyền cách mạng sụp đổ, song nhân dân tuyệt đối tin tưởng Đảng và Nhà
nước, vì cuộc đời chiến đấu, hy sinh của Người đã đảm bảo cho lòng tin
vững chắc này như Người nói: "Tôi Hồ Chí Minh, suốt đời cùng đồng bào
chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc, không bao giờ bán nước."" Tại sao Hồ
Chí Minh tự biện hộ cho mình là không bao giờ bán nước? Thế thì có phải
tiếng đồn trong dân gian đã lan rộng về hành động phản quốc của ông?
Bút Sử
|