Khi nhiều quốc gia trượt sâu hơn vào tình trạng khó khăn tài chính, một
hiểm họa mới dường như đang dấy lên bên trong nền kinh tế Mỹ, hàng hóa
ứ đọng chờ người mua, giá cả suy giảm bóp nghẹt vốn đầu tư thanh sạch
và làm tình trạng thất nghiệp thêm trầm trọng. Người ta gọi nó là giảm
phát, một thuật ngữ làm các nhà kinh tế nổi gai ốc.
|
Góc nhìn quốc tế: Khủng hoàng tài chính thế giới tuần qua Joseph Stiglitz: Cách thoát khỏi khủng hoảng tài chính toàn cầu Khủng hoảng kinh tế thế giới: Nỗi đau thực sự bắt đầu...
|
Khủng hoảng kinh tế
thế giới có thể làm mất việc của hàng ngàn công nhân ở các công ty đa
quốc gia tại các nước đang phát triển (Ảnh: Times) | "Thập kỷ bị đánh mất" có thể trở lại?
Giảm
phát từng đi đôi với cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Sự rớt giá liên
tục cũng nằm trong tâm chấn của cái gọi là “thập kỉ bị đánh mất” ở nước
Nhật sau sự đổ vỡ kinh hoàng của bong bóng thị trường bất động sản vào
cuối những năm 1980, giai đoạn mà hiện nay một số chuyên gia tìm thấy
có nhiều tương đồng với tình trạng khó khăn của nước Mỹ.
“Điều khả dĩ đó là phác họa rủi ro mà tôi nhận thấy”, Robert J. Barbera, kinh tế gia đầu ngành tại công ty nghiên cứu và mậu dịch ITG, cho biết. “Nó là cuộc khủng hoảng mà chúng ta đối mặt.”
Khi
những nền kinh tế trên toàn cầu yếu đi, nhu cầu dầu mỏ, đồng, lương
thực và các mặt hàng khác giảm đi, kéo theo sự hạ giá của nguyên liệu
thô. Tuy giả cả giảm rõ rệt ở hầu hết hàng hóa và dịch vụ, vẫn hiển
hiện một ngoại lệ là các mặt hàng gia dụng.
Nhu cầu giảm bắt
đầu làm hạ giá thành một số mặt hàng, như đồ nội thất và đồ giường tủ,
vốn đã giảm nhẹ từ đầu năm 2007, theo số liệu của chính phủ. Đồ điện,
vật dụng và thiết bị gia đình cũng bắt đầu giảm giá.
Chỉ vài
tháng trước, những nhà chính sách người Mỹ đã lo lắng về vấn đề ngược
lại, đó là tình trạng tăng giá, hay lạm phát, khi giá dầu mỏ và lương
thực leo thang khi đó rút ruột nền kinh tế. Vào tháng 7, giá cả bình
quân cao hơn một năm trước đó 5,6 %, mức lạm phát cao nhất kể từ năm
1991. Tuy nhiên đến cuối tháng 9, mức lạm phát theo năm giảm còn 4,9 %
và được chờ đợi sẽ còn thấp hơn nữa.
Lạm phát có thể khơi mào cho điều tồi tệ hơn: Giảm phát
|
Một loạt các mặt hàng được bán trong các siêu thị Wal-Mart ở Mỹ giảm giá nhằm kích thích tiêu dùng (Ảnh nguồn: Beth Hall/Associated Press) | Điều
lo lắng khác nảy sinh khi ở trường hợp xấu nhất, lạm phát chấm dứt có
thể khơi mào cho một điều tồi tệ: sự cắt giảm tiêu dùng lững thững và
dai dẳng khi người tiêu dùng và nhà kinh doanh trên khắp thế giới mất
sức mua, khiến hạ giá thành nhiều mặt hàng.
Mặc dù được cân
nhắc là khó thể xảy ra, điều đó vẫn có thể khiến nhà kinh doanh trì
hoãn sản xuất và gia tăng cắt giảm nhân công, làm cho nhiều người mất
khoản tiền lương và nhu cầu tiêu dùng suy giảm về sau.
Mối nguy
hiểm ở chỗ khó tìm ra cách giải quyết. Những nhà chính sách có thể đại
khái đẩy lùi lạm phát bằng cách tăng lãi suất, thắt chặt hoạt động kinh
tế và cắt giảm nhu cầu tiêu dùng. Nhưng như trường hợp Nhật Bản đã trải
qua, một nền kinh tế có thể chìm trong giảm phát nhiều năm liền, ngay
cả khi đã đưa lãi suất về số không: giá cả sụt giảm khiến các công ty
đắn đo trong đầu tư ngay cả khi thừa thãi tín dụng.
Hầu hết
những năm 1990, giá nhà đất và hàng hóa không ngừng suy giảm ở Nhật
Bản. Khi nhân công bị cắt giảm nhiều hơn và sức mua giảm, giá cả vẫn
không ngừng rớt, tuột trong vòng xoáy bại sản. Một số người lo ngại nền
kinh tế Mỹ đang lâm vào số phận tương tự, nếu như suy thoái sâu rộng và
kéo dài, còn người tiêu dùng mất sức mua cũng như ở châu Âu, châu Á và
Mỹ La tinh phải chịu xuống dốc.
“Đó là một nguy cơ đầy ý nghĩa vào lúc này”,
Nouriel Roubini, nhà kinh tế ở Stern School of Business thuộc đại học
New York cho biết. Ông là người đã tiên đoán trúng từ trước cuộc khủng
hoảng tài chính và cảnh bảo khả năng giảm phát cách đây nhiều tháng. “Chúng ta đã bước vào vòng luẩn quẩn của nỗi khó khăn ngày một chồng chất”, ông nói.
Hầu
hết nhà kinh tế, bao gồm cả Roubini và Barbera, cho rằng những nhà
chính sách người Mỹ có đủ phương cách để ngăn ngừa hố đen giảm phát như
đã từng bao trùm Nhật Bản. Nỗi lo giảm phát gần đây nhất ở Mỹ là vào
năm 2003, nhưng Cục dự trữ liên bang (FED) đã ngăn chặn hiểm họa bằng
cách giảm lãi suất nhằm giữ nền kinh tế phát triển. Lần này, FED một
lần nữa phải mạnh tay, cắt lãi suất xuống mức 1% trong tuần trước. Đồng
thời những dự án ứng cứu của chính phủ cũng đã đổ tiền vào nền kinh tế.
“Nếu bạn in đủ tiền, bạn có thể tạo ra lạm phát”, Kenneth S. Rogoff nói. Ông là kinh tế gia đầu ngành ở Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và hiện nay là giáo sư ở Harvard.
“Chúng ta đang bước vào cuộc suy thoái toàn cầu quyết liệt thật sự”
|
Giảm giá, các cửa hàng hi vọng có thể kích cầu và cứu vớt thị trường (Ảnh nguồn: Ric Francis/Associated Press) | Nhưng
ngay cả khi chính quyền Mỹ buông lỏng tín dụng, nguy cơ vẫn gia tăng.
Không phải chỉ từ sau Đại suy thoái nhiều quốc gia mới phải đối mặt với
nó. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng lên toàn cầu, như một con
virus miễn nhiễm mọi phương cách chữa bệnh. Từ Hàn Quốc đến Iceland,
Brazil, cơn dịch lan rộng, mang theo nó là sự thắt chặt tín dụng đã làm
ngã gục ngay cả những công ty tài chính khả kháng nhất.
“Chúng ta đang bước vào cuộc suy thoái toàn cầu quyết liệt thật sự”, Rogoff nói. “Một
cuộc suy thoái tài chính đáng kể đã được mở đường để trở thành nỗi
hoảng sợ trên toàn cầu mang đầy đủ dáng dấp. Đó là một tình trạng rất
nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không chỉ một vài năm tới tồi tệ, mà chúng
ta sẽ có một thập kỉ bị mất khác”.
Kinh tế toàn cầu đã phát
triển khởi sắc trong những năm gần đây, phần nhiều hưởng lợi từ việc
đầu tư cho mượn. Nó làm nổi lên những khu nhà ở trù phú ở Florida và
California, nhà máy thép ở Ukraina, lò gia súc ở Brazil và khu phố
thương mại ở Thổ Nhĩ Kì.
Làn sóng đó giờ đây đang đổi chiều.
Những ngân hàng và tập đoàn tài chính đang tính đến những khoản lỗ đầu
tư trị giá hàng trăm tỉ đô la. Khi khó khăn trong việc tích lũy lại
vốn, họ hoãn việc cho khách hàng vay nợ, đòi các khoản trả nhanh chóng
từ các khách hàng khác và các tài sản bán tháo, như nhà bán ra từ việc
tịch thu để thế nợ, các khoản đầu tư liên quan đến thế chấp và nợ liên
danh. Việc bán ra đang kéo giá cả xuống thấp hơn nữa, khiến trị giá tài
sản trong bảng cân đối kế toàn giảm đi, nhiều trường hợp buộc phải phải
thanh toán.
“Bạn rơi vào vòng phản hồi bất lợi này khi giá trị tài sản suy giảm”, Barbera nói. “Về căn bản bạn đang đặt gánh nặng xuống nền kinh tế toàn cầu.”
Trong
những cuộc khủng hoảng trước, như ở Mexoco năm 1994 và hầu hết châu Á
năm 1997 và 1998, những nền kinh tế non yếu cũng tìm cách phục hồi bằng
việc đẩy mạnh xuất khẩu, không riêng gì nước Mỹ. Nhưng bây giờ, người
tiêu dùng ở Mỹ bị ảnh hưởng nặng. Sau nhiều năm được mượn tiền mua nhà
và dư dả chi tiêu tín dụng, người tiêu dùng đang bị quay lưng lại.
Từ
châu Á đến Mỹ La tinh, xuất khẩu đang giảm dần và sẽ tiếp tục như thế
khi nhu cầu tiêu dùng trên thế giới sa sút. Nỗi lo thêm chồng chất khi
những nền sản xuất chủ yếu như Trung Quốc hay Ấn Độ, vốn gia tăng sản
lượng mạnh mẽ trong những năm gần đây, sẽ phải bán hạ giá sản phẩm ra
thị trường thế giới để giữ các nhà máy hoạt động và ngăn chặn nạn thất
nghiệp, kéo giá cả thấp xuống.
Trước đó trong năm nay, một số
nhà phân tích cho rằng những công ty ở Mỹ nên tiếp tục đà kinh doanh,
ngay cả khi người tiêu dùng quay đi, bàng cách bán ra thị trường nước
ngoài. Lập luận cho rằng Caterpillar, nhà sản xuất thiết bị xây dựng,
có thể bị thiệt hại doanh thu ở Mỹ nhưng những dự án lớn từ Nga cho đến
Dubai đòi hỏi nhà thầu nước ngoài. Úc và Brazil cũng cần mở rộng các
hoạt động khai khoáng khi đưa quặng sắt đến những lò nung ở Đông Bắc Á.
“Năm tới, không nghi ngờ gì nữa, sẽ là một thách thức”
Nhưng khi hầu hết thế giới đang gặp khó khăn, Ceterpillar cũng lo lắng. “Năm tới, không nghi ngờ gì nữa, sẽ là một thách thức”, James W. Owens, CEO của Ceterpillar nói.
Trung
Quốc từ lâu đã là tâm điểm của lập luận cho rằng thế giới vẫn giữ đà
tăng trưởng bất kể Mỹ rơi vào khó khăn. Trung Quốc đang nhập khẩu bông
từ Ấn Độ và Mỹ, linh kiện điện tử từ Hàn Quốc, Malaysia và Đài Loan; gỗ
từ Nga và châu Phi, và dầu từ Trung Đông.
Nhưng nhiều thành phẩm
của Trung Quốc với nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài đã đổ bộ vào thị
trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Khi người tiêu dùng quay lưng ở những
nước trên, các nhà máy Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng cùng với các nhà
cung cấp trên toàn cầu.
Việc Trung Quốc sản xuất ít máy laptop
hơn trước kéo theo nhu cầu về chip giảm. Tuần trước nữa, Toshiba, nhà
sản xuất chip lớn nhất ở Nhật, công bố khoản lỗ 275 triệu đô la từ
tháng 7 đến tháng 9, cho rằng đó là hậu quả của nhu cầu trên thế giới
giảm đi.
Nhu cầu cho TV màn hình phẳng ít hơn đồng nghĩa với
việc giảm nhu cầu của màn hình thủy tinh phẳng. Tháng trước, Samsung,
nhà sản xuất điện tử lớn ở Hàn Quốc, nói rằng việc vượt cung của sản
phẩm này tạo nên khoản lỗ trong quý nặng nhất kể từ 3 năm qua.
Hiện
nay, việc thừa mừa hàng hóa dường như đang xảy ra ở Mỹ. Đặt hàng của
cho xe tải của các doanh nghiệp sụt giảm. Đầu tư trong thiết bị công
nghiệp suy yếu. Tuy nhiên lượng vật tư lại gia tăng.
“Tôi lo lắng về một nền kinh tế tương tự nước Nhật”, Barry P. Bosworth, nghiên cứu sinh Viện Brookings cho biết. “Chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc làm thế nào để đưa nền kinh tế phục hồi trong vài năm tới”.
Tác
giả bài viết là Peter S. Goodman, cây bút kinh tế trong nước của báo
The New York Times. Trước đó, ông là phóng viên viết về kinh tế châu Á
của tờ Washington Post.
- Quốc Tân (theo New York Times)
|
|