Ngày 28/1/2002 (hơn 2 năm sau khi ký Hiệp định), bác Lê Công Phụng, thứ
trưởng Bộ Ngoại Giao nước CHXHCN Việt Nam, đã lần đầu tiên trả lời
phỏng vấn chị Thu Yên, lúc đó là phóng viên VASC về vấn đề biên giới,
trong đó có đoạn: -
Thưa ông, có một chi tiết mà rất nhiều người nói đến, người ta nói đến
thác Bản Giốc, mục Nam Quan. Thưa ông, ở trong đó có cái gì là sự thật
và có cái gì thực ra chỉ là sự phóng đại mang màu sắc cảm tính là
nhiều?
-
Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ
là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không
ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng
không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi
vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm
du lịch được nhiều người ưa chuộng.
Đây
là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh
và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực
trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được
1/3 thác. - Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh? -
Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ
có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc
tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như 1 dòng sông, 1 dòng
suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là
chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không
đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất. -
Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách
nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay
sao? -
Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột
mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm mét. Vì
vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc. Trước
tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa
đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận
pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà
dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả.
Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện
ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn
được. Lẽ
ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng
ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%.
Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình. Ở
chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực
tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản
Giốc. Qua phần trả lời của bác Phụng, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận: 1.
Hiệp ước Pháp Thanh 1887 thừa nhận cột mốc 53 nằm ở đúng vị trí của nó
hiện nay, tức là ở trên cồn nhỏ nằm giữa suối chảy qua thác Bản Giốc. 2.
Theo vị trí mốc này, Việt Nam đáng ra chỉ nhận được chủ quyền 1/3 con
thác. Nhưng nhờ sự đàm phán tài ba mà chúng ta đã cưa đôi, 50:50. Bài
viết này sử dụng một số bức ảnh thu thập được ở trên mạng để phân tích
sự đúng sai của những luận điểm nêu trên của bác Phụng. Chúng ta có thể
chấp nhận thua thiệt trong đàm phán biên giới nhằm đóng lại những tranh
chấp giữa hai bên, để cùng nhau ổn định phát triển. Nhưng phải giải
thích điều này một cách minh bạch công khai, không nên lươn lẹo lừa dối
người dân. Hình 01: Ảnh vệ tinh chụp từ Google Earth, với vòng vàng đánh dấu vị trí cột mốc 53, hai vòng đỏ đánh dấu thác Bản Giốc. Hình 02: Hình chụp cận cảnh cột mốc 53 ở gần thác Bản Giốc Vị
trí cột mốc phù hợp với tấm hình do khách du lịch chụp cận cảnh cột
mốc. Dưới góc nhìn thuận lợi này, chúng ta có thể thấy cột mốc nằm sát
chân núi dốc đứng, chứ không phải cồn giữa suối như bác Phụng nói. Nếu cột mốc 53 nằm ở cồn thật thì sao? Hình 03: Thác Bản Giốc chia hai: Thác lớn thuộc Trung Quốc và thác bé thuộc Việt Nam. Ngay
cả khi cột mốc 53 nằm ở cồn giữa suối như bác Phụng nói, thì khẳng
định: "trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc
về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời
nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác" của bác Phụng cũng
không đứng vững. Nhìn
vào hình 01 và 03, chúng ta thấy rằng vị trí "rãnh sâu nhất sâu" phải
nằm ở thác lớn, khó có thể lệch sang bên thác bé của Việt Nam. Chúng ta
có thể khẳng định điều này vì thác bé chỉ là một nhánh nhỏ của dòng
chảy, với lưu lượng thấp hơn nhiều so với bên thác lớn. Và như thế,
đường biên giới phải chia đôi thác lớn, tức là Việt Nam có quyền đòi
chủ quyền 2/3 thác chứ không phải 1/3 như bác Phụng khiêm tốn nhận
định. Nếu chúng ta chấp nhận chia 50:50 thì đó là sự yếu kém trong đàm phán, chứ không phải là tài ba như hàm ý của bác Phụng. Thế theo hiệp ước Pháp Thanh 1887, cột 53 nằm ở đâu? Trong
hiệp ước nêu trên, cột mốc số 53, thuộc đoạn thứ hai, được định nghĩa
như sau: "Tên: Pan-Ngô; Cắm tại: bên lề một con đường ở phía Tây-Nam và
trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ". Không hề nhắc tới cồn hay
suối. Những cột mốc cắm ở bờ sông như cột 51 và 52 đều có ghi rõ ràng:
"Cột 51, tên Khau Pang (Canh 6 Bàng Ải 更 旁 隘), cắm tại : Bên bờ trái
sông Qui-Xuân (bờ bên Tàu, ghi-chú của Trương Nhân Tuấn) ở hạ-lưu một
cái cái thác và cách 150m" và "Cột 52, tên Khau Canh Ai (Khẩu Canh Ải 7
口 更 隘), cắm bên bờ sông và cách một trạm canh (ải, tức cửa biên-giới
tên Khẩu-Canh) 5 bước". Có
một giả thiết là dòng chảy con suối đã thay đổi. Xin lưu ý là cột mốc
cách thác Bản Giốc có "mấy trăm mét" (theo lời bác Phụng), do đó dòng
chảy không thể thay đổi lớn được, nếu không thác Bản Giốc... cũng không
nằm nguyên chỗ cũ. Vậy
chỉ còn một giả thuyết là cột mốc 53 hiện tại đã được ngụy tạo, dịch
chuyển tới chỗ hiện tại. Giả thuyết này được chính sách vở chính thống
của Đảng và Nhà nước thừa nhận: Hình 06: Tài liệu "Vấn đề Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc" do NXB Sự Thật - Hà Nội ấn hành năm 1979 (nguồn: Trương Nhân Tuấn). Trong
văn bản này, Việt Nam chính thức tố cáo Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong,
đây chính là cồn mà theo một số người thì cột mốc 53 nằm ở trên đó.
Trước đó cồn và thác thuộc Việt Nam: Tại
khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên
sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền
Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1976, phía
Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập
thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc
thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố
bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, việc làm đã rồi,
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên
nhận cồn này là của Trung Quốc. ... Năm
1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam: tỷ
lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số
đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất Việt Nam
thành của Trung Quốc. Thí dụ, họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc
(mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc
của Việt Nam và cồn Pò Thoong. Nguồn: Cuốn "Vấn đề Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc" do NXB Sự Thật - Hà Nội ấn hành năm 1979 Bản
thân bác Phụng cũng thừa nhận rằng sách vở lịch sử cả hai bên đều mặc
nhiên coi thác Bản Giốc toàn bộ là của Việt Nam. Những câu chuyện và
hình ảnh mà người Pháp để lại cũng chứng tỏ điều này (xem tài liệu
Trương Nhân Tuấn) Hình
08: Đội quân tuần tiễu của Pháp qua sông ở thác Bản Giốc, mà theo quy
định là quân đội hai bên không được xâm phạm biên giới của nhau (nguồn:
Trương Nhân Tuấn). Cho
tới nay, bản đồ liên quan tới hiệp định biên giới Việt Trung vẫn chưa
được công bố. Thác Bản Giốc chỉ là một trong nhiều điểm nghi vấn về sự
bất bình đẳng trong hiệp định ký tháng 12/1999 này. Thiết nghĩ Đảng và
Nhà nước cần phải công bố thông tin, làm rõ những khúc mắc trên đây, để
làm yên lòng dư luận. Người dân xứng đáng nhận được lời giải thích thỏa
đáng về vấn đề này càng sớm càng tốt. Khai Hoan KH
|