Một
tài năng thi ca mà thơ và con người của anh đang được theo dõi rất kỹ
trong và ngoài nước, đó là nhà báo nhà thơ Nguyễn Việt Chiến hiện đang
bị nhà nước Việt Nam giam giữ và buộc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ
trong vụ án PMU18.
Nguyễn Việt Chiến sinh năm
1952 tại Hà Tây, quê Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây, sống và làm báo tại Hà Nội.
Phóng viên báo Thanh Niên từ năm 1993. Nguyễn Việt Chiến cũng là hội viên Hội Nà
Văn Việt nam, hội viên Hội Nhà Báo Việt nam, hội viên Hội Nhà Văn Hà Nội.
Những
sáng tác chính của anh là ba tập thơ Ngọn sóng thời gian, Mưa lúc không giờ, Cỏ
trên đất và cuối cùng là thi tuyển Những con ngựa đêm. Nguyễn Việt Chiến nhận
được Giải thưởng văn chương của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 2004.
Tháng 5 năm 2008 anh bị bắt
cùng với bạn đồng nghiệp là nhà báo Nguyễn Văn Hải của tờ Tuổi Trẻ. Ra tòa vào
ngày 15 tháng 10 năm 2008.
Anh bị kết án 2 năm tù giam vì cương quyết không nhận
là mình có tội, trong khi đó nhà báo Nguyễn Văn Hải được phóng thích vì tòa cho
là có thái độ thành khẩn nhận tội. Tội danh mà nhà báo Nguyễn Việt Chiến bị cáo
buộc là một tội danh từng gây rất nhiều tranh cãi.
Một tài năng thi ca
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến được
đánh giá cao qua tài năng thi ca cũng như nhân cách sống và làm việc của anh.
Anh được xem là nhà thơ cách tân trong ngôn ngữ và ý tưởng đổi mới thơ Việt Nam
đương đại.
Tác phẩm cuối của anh mang tên “Những con ngựa đêm” có lẽ là tác phẩm
quan trọng nhất, trong đó dòng chảy trữ tình bàng bạc trong nhiều bài thơ nhưng
không làm mất đi chất lửa của đời thường qua cái nhìn của một ký giả.
Khi ẩn dụ,
khi phơi trần, nhưng dù dưới hình thức nào thì Nguyễn Việt Chiến cũng quyến rũ
được người đọc thơ anh bằng những nhận biết kỳ ảo, miêu tả tế vi và hoài mơ
lãng mạn.
Những con ngựa đêm đi qua
mặt hồ
Để lại dấu chân trên song
Những con ngựa hoang thức
dậy từ đáy nước sâu
Những ngôi sao hoang mọc dậy
từ đáy nước sâu
Đêm nay rong rêu không ngủ
Đêm nay cá hồ không ngủ
Những con ngựa đêm cõng
chúng ta đi qua mặt hồ
Khi chiếc kẹo bạc hà trong
miệng em chưa tan
Bên kia hồ nhiều người
đang hôn nhau
Những lứa đôi
Không thuộc về ngày mai
Không thuộc về quá khứ
Nhưng giấc mơ đêm nay là của
họ
Những con ngựa đêm đi qua
mặt hồ
Đi qua đường viền của bóng
tối
Em cởi bỏ sợi dây buộc tóc
Mái tóc đêm xoã ấm
Em cũng giống như chú ngựa
đêm đi qua mặt hồ
Nhưng không để lại dấu
chân trên song
Bởi em là trăng xanh
Chúng ta vừa nghe chị Phùng
Thị Bích Ngọc hiền nội của nhà thơ đọc bài “Những Con Ngựa Đêm và Trăng”.
Ngôn ngữ thi ca tài hoa
Bài thơ ngắn nhưng chứa đựng
thật nhiều điều. Trước tiên là ngôn ngữ thi ca. Nguyễn Việt Chiến rất tài hoa
khi sử dụng thứ ngôn ngữ tinh khôi, chưa qua tinh luyện của dòng thời gian văn
học.
Anh sắp xếp trật tự của chúng một cách khác thường và biến chúng từ rất
khó cảm thụ trở thành bình thường và dễ hiểu một cách lạ lùng.
Những con ngựa hoang thức
dậy từ đáy nước sâu
Những ngôi sao hoang mọc dậy
từ đáy nước sâu
Cấu trúc ngữ nghĩa trong hai
câu này nếu đứng riêng ra thì không một từ nào khó hiểu nhưng khi kết hợp lại với
nhau trong cùng một nhịp điệu chúng trở thành mơ hồ và đầy ấn tượng.
Người ta
có thể tự hỏi về ý nghĩa của hai câu thơ nhưng sẽ cùng đồng ý với nhau một điểm:
Ý niệm của hai câu này rõ ràng là đơn giản nhưng khó giải thích cho thật dễ hiểu.
Người đọc hay nghe cảm thụ rất nhanh tính chất mơ hồ như khi người ta xem tranh
trừu tượng. Và khi xem tranh trừu tượng, óc quan sát không còn quan trọng cho bằng
sự đồng cảm. “Ngựa” và “Sao” trong hai câu thơ không sáng tạo cho sự quan sát
mà được nhào nặn cho cảm nhận và suy tưởng.
Em cũng giống như chú ngựa
đêm đi qua mặt hồ
Nhưng không để lại dấu
chân trên song
Bởi em là trăng xanh
Bởi em là trăng xanh hình như lập lại những viên lệ đá xanh của Thanh Tâm
Tuyền, nhưng trăng xanh trong thơ Nguyễn Việt Chiến gần gũi hơn, ít triết học
hơn do đó dễ đồng cảm hơn. “Ngựa” làm ta liên tưởng tới em: Thần thoại và dễ vỡ.
“Em” làm ta liên tưởng tới trăng xanh: Đẹp, buồn và cũ như cổ tích. Chi tiết rất
ít nhưng được Nguyễn Việt Chiến khéo léo tập hợp lại khiến câu thơ nổi lên miên
man như sóng vỗ.
Những con ngựa đêm cõng
chúng ta đi qua mặt hồ
Khi chiếc kẹo bạc hà trong
miệng em chưa tan
Bên kia hồ nhiều người
đang hôn nhau
Một lần nữa, ba câu thơ rời rạc
và đầy mệt mỏi này bỗng dưng tạo hiệu ứng thành một chuỗi hình ảnh liên hệ. “Ngựa
trên lưng”, “bạc hà trong miệng” và “người hôn nhau” là những
cặp chữ tuyệt đẹp khiến câu thơ rộng mênh mang và sâu não nùng.
Nguyễn Việt Chiến cũng tỏ ra
cứng tay trong loại thơ 8 chữ tuy thể loại này đã được cày xới rất kỹ bởi những
kiện tướng trong phong trào Thơ Mới. Hãy nghe vài đoạn trích trong bài "Đất
nước" của anh:
Thôi hãy lặng yên
Cánh đồng trên trang sách
Tiếng cuốc dưới trời mưa
Và hạt thóc lấm bùn
Ta như cỏ trên ngực trần đất
nước
Thôi hãy chín đi quả xanh
rơi vãi
Nắm đất nào chẳng đẫm ứa mồ
hôi
Gánh lo âu vai mẹ hứng suốt
đời
Lưng mẹ thắt dáng buồn
sông núi cổ
Nón trên đầu, núi hoang liền
ruộng vỡ
Ta nhận ra đất nước chính
là người
Thôi hãy lên đường
Rừng sâu bể vắng
Những đứa con năm tháng
ngóng tìm về
Nơi mắt mẹ trời xanh cha
thấy hửng
Nơi tóc mẹ trắng mưa đêm
lũ úng
Mùa bão dài chưa qua
Chiếc thuyền nan câu hát lấm
phù sa
Miền châu thổ bùn hoang
gió cả
Cây lúa nào cháy đen mùa
giặc giã
Mẹ gánh con hớt hải chạy trên
đồng
Mẹ gánh con súng trận đã
bao năm
Mùa loạn lạc lúa trên đồng
vẫn cháy
Thôi hãy lặng yên
Cánh đồng trên trang sách
Tiếng cuốc dưới trời trưa
Và hạt thóc lấm bùn
Ta như cỏ trên ngực trần đất
nước
Nhà thơ làm
báo
Và hạt thóc lấm bùn,
Ta như
cỏ trên ngực trần đất nước
Hai câu cuối
của bài thơ cho người đọc thấy niềm đau của nhà thơ trước nhọc nhằn mà bao đời
nay người dân Việt vẫn chưa thoát khỏi. Tầm nhìn của một nhà báo phần nào chi
phối cảm quan thi ca của anh và tính chất thời sự không thể thiếu vắng trong những
bài thơ sau này. “Niềm Tin Thơ Ngây” là bài thơ có lẽ nói lên được rất
nhiều tâm sự của một nhà thơ làm báo. Anh thảng thốt móc niềm tin của mình ra
ngắm nghía và bật lên những thừa nhận não lòng:
Cánh đồng trên trang sách
Những đám mây ngôn từ
Cỗi cằn bao ý tưởng
Hạt chữ miền hoang vu
Những ngọn nến không cháy
Những cánh chim không về
Trên môi lời hát ấy
Ngủ quên không ngời nghe
Những cỗ xe tưởng tượng
Chất đầy sách và người
Oằn lưng như ngựa kéo
Đi về miền xa xôi
Cánh buồm nào không gió
Dòng sông nào đứng im
Không một người đi bộ
Không một vì sao lên
Thế giới chung quanh nhà thơ
có vẻ như cô đặc lại bằng những hình ảnh: cánh đồng, trang sách, cánh chim, ngựa
kéo, cánh buồm, vì sao... tất cả quay chung quanh một trục bánh xe thời cuộc, sức
ly tâm của vòng quay kéo nhào những tranh chấp trong đời sống lẫn mệt mỏi rã rời
của từng con người trong vòng quay ấy. Người trí thức thì tự vấn trước những
trang sách bây giờ đã trở thành vô nghĩa như mây bay, như ngựa chạy....
Tận tình với ngôn từ
Nguyễn Việt Chiến làm thơ lục
bát cũng hay như thơ tự do, thơ năm chữ cũng tròn như thơ tám chữ. Anh không
công phu với thể loại mà anh tận tình chí cốt với ngôn từ.
Thơ của anh có thể đọc
để đồng hành mà cũng có thể để thưởng thức và suy gẫm. Dù bằng cách nào khi đã
chọn thơ Nguyễn Việt Chiến, người đọc thật khó lòng mà bỏ ngang trước khi dừng
lại ở những chữ cuối cùng.
Cát chiều bay sẫm bến sông
Thương con đò ngược mùa
đông chưa về
Lối mòn bạc cỏ may đê
Chiều mòn rỗng tiếng chim
gì kêu đau
Sóng đêm tự bến sông nào
Theo trăng về thức dưới
màu mây xưa
Tôi hoang vu, cát hoang vu
Trăng là người khách qua
đò đêm nay
Cô đơn xuống một đò đầy
Tôi chờ em phía bên này
mùa đông
Cát còn bay trắng bến sông
Người còn đi trắng mùa
mong ước này
Tôi cầm hạt cát trên tay
Đêm không còn ấm như ngày
có em
Tôi cầm cả chính tôi lên
Câu thơ nhặt được phía miền
quạnh hiu
Câu thơ như cát mỗi chiều
Đem theo chút ấm nắng
nghèo vào đêm.
Nguyễn Việt Chiến cũng trãi
lòng mình trong “Nhật Ký Của Một Nhà Báo”:
Anh dành cho mình vài phút
xa xỉ
Sau một ngày làm việc
Được ngồi một mình với cốc
bia
Giữa những người xa lạ
Thành phố đang mưa
Đám mây trong đầu anh
Và ngọn lửa nghi ngại
Chiếc bàn uống nơi anh ngồi
ướt và bẩn
Vài phút xa xỉ anh dành
cho mình
Sau cơn giông
Anh không biết gì về những
người xung quanh
Họ đang uống cũng như anh
ngẫm ngợi
Trời mỗi ngày một tối
Và mưa mau hơn
Những đứa trẻ bán báo rong
trong thành phố này
Cũng như những đứa trẻ
lang thang phía bên kia lục địa
Và, anh - người làm báo
Viết gì về trẻ thơ
Chiến tranh và cái đói
Tuổi thơ rét mướt
Anh đã từng đi qua
Giờ này
Bên cạnh chiếc máy chữ của
anh
Đất đai đang cày xới
Nhũng hạt giống được ngâm ủ
trong bùn
Để sinh ra thứ ánh sáng tốt
tươi
Và anh
Kẻ nông phu cần mẫn
Thức dậy mỗi sớm mai trên
cánh đồng ngôn ngữ
Bởi niềm tin lành lặn
Ở con người
Thật khó mà hình dung ra được
anh đang nghĩ gì trong khuôn viên nhà tù hiện nay. Tài hoa trong thi ca, mạnh mẽ
trong ngòi bút phản kháng tham nhũng để cuối cùng nhận được những xỉ vả từ bản
án mà anh không làm.
Cay đắng có thể làm thơ anh hay hơn nhưng tù hãm không thể
làm niềm tin bật sáng.
Niềm tin của kẻ nông phu cần mẫn Nguyễn Việt Chiến trên
cánh đồng chữ nghĩa có còn lành lặn hay không sau bài học cay đắng này có lẽ vẫn
còn đeo đẳng anh rất lâu sau này.
Và cũng có lẽ, thơ sẽ mãi mãi bên anh thay
cho ngòi bút ký giả nay đã trở thành xa xỉ từ sau bản án hai năm.....