Bộ trưởng NN&PTNT sẵn sàng nhận kỷ luật do dự báo kém
Qua theo dõi các phiên
chất vấn tại QH lần này, có thể thấy lý do mà các vị lãnh đạo ngành và
Chính phủ đưa ra giải thích cho quyết định tạm ngưng ký hợp đồng xuất
khẩu gạo đúng vào lúc giá gạo thế giới đạt mức cao kỷ lục, tựu chung
là: 1) Đảm bảo an ninh lương thực; 2) Chống lạm phát. Ta hãy thử xem
xét mức độ xác đáng của hai lý do này.
Một độc giả Tuần Việt Nam, người từng có nhiều năm công tác trong ngành xuất khẩu gạo nêu ý kiến phản biện.
An ninh lương thực và kiềm chế lạm phát
1) Về an ninh lương thực,
thì Việt Nam là nước sản xuất lúa gạo hàng đầu thế giới, nên vấn đề an
ninh lương thực chắc chắn là ít đáng lo hơn hầu hết các nước khác trên
thế giới, nhất là những nước không tự chủ được về lương thực. Cũng như
các nước OPEC khó có thể lo lắng thái quá về an ninh năng lượng khi giá
dầu mỏ tăng phi mã.
Hơn nữa, với thời gian
gieo trồng đã được rút ngắn chỉ còn 3 tháng cho một vụ lúa, ngoài ra
còn có các cây lương thực khác xen canh, thì nguy cơ khủng hoảng lương
thực lại càng giảm đi đáng kể.
|
Một đất nước xuất khẩu gạo thì phải mong giá gạo thế giới tăng càng cao càng tốt mới phải. Ảnh: VietNamNet | Và
cuối cùng, lượng gạo dành cho xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 1/10 tổng sản
lượng lương thực, thì việc tăng lượng xuất khẩu thêm vài trăm ngàn,
thậm chí cả triệu tấn đi chăng nữa, cũng không thể ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình hình lương thực nói chung của đất nước. Với lượng ngoại
tệ thu được thêm đó, hoàn toàn có thể tái nhập lương thực trong trường
hợp khẩn cấp như mất mùa trắng.
Tóm lại, lý do an ninh lương thực chưa thực sự thuyết phục.
2) Lý do chống lạm phát cũng thiếu thuyết phục,
mặc dù thoạt nghe rất có lý. Nước ta 70% dân số sống ở nông thôn, nên
việc giá lúa gạo tăng sẽ làm tăng thu nhập của khu vực dân cư này. Chỉ
có 30% dân cư, bộ phận phi nông nghiệp, là phải chịu thiệt.
Tuy
nhiên đối với bộ phận dân thành thị thì chi phí cho gạo ăn chỉ chiếm
một phần nhỏ trong tổng chi tiêu, do đó việc giá gạo tăng không ảnh
hưởng nhiều đến họ.
Đây chẳng qua chỉ là
chuyển một phần thu nhập của dân thành thị sang cho dân nông thôn, chứ
nền kinh tế không mất đi đâu hết. Khoản tiền đó đối với dân thành thị
thì không đáng kể, nhưng lại vô cùng có ý nghĩa đối với dân nông thôn,
vì thu nhập trung bình của dân nông thôn thấp hơn nhiều lần so với dân
thành thị.
Ở nhiều nước, Chính phủ vẫn phải tìm cách hỗ trợ
cho nông dân bằng cách này hay cách khác để giảm bớt cánh kéo giá cả
giữa sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, thu hẹp chênh lệch thu nhập
giữa hai khu vực.
Như thế không thể nói
rằng việc giá gạo tăng sẽ gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế - quan
điểm này hết sức thiển cận. Trái lại là đằng khác. Nếu tranh thủ lúc
giá gạo thế giới tăng mà chúng ta gia tăng xuất khẩu, thì lẽ ra đất
nước đã có thêm một khoản ngoại tệ thặng dư lớn từ trên trời rơi xuống,
góp phần giảm nhập siêu - cơ hội phải nói là trăm năm mới có một lần.
Nếu
giá gạo năm sau tiếp tục tăng cao nữa thì càng tốt, vì lúa gạo là thứ
"nhà trồng được", hết lại trồng, chứ không phải tài nguyên như than đá
moi lên bán hết là tiêu.
Một đất nước xuất khẩu
gạo thì phải mong giá gạo thế giới tăng càng cao càng tốt mới phải.
Cũng như các nước xuất khẩu dầu mỏ chỉ mong giá dầu tăng, tăng nữa,
tăng mãi. Có nước nào trong OPEC lo sợ giá dầu mỏ thế giới tăng cao sẽ
làm giá xăng trong nước họ tăng, khiến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng
không?
|
Đòi hỏi nông dân và DN thay đổi tư duy, ý thức ngay lập tức là chuyện viển vông, duy ý chí. Ảnh: news.acomm.vn |
Nhà nông và doanh nghiệp không bắt tay được với nhau
3)
Một mặt khác của vấn đề mà ít ai đề cập: việc tạm ngưng ký hợp đồng
mới, dù vô tình cũng đã ngầm giúp cho các DN xuất khẩu gạo theo các hợp
đồng Chính phủ tránh được khoản lỗ khổng lồ.
Hàng năm nước ta vẫn
tham gia đấu thầu cung cấp gạo cho một số thị trường truyền thống như
Philippines, Indonesia v.v... Hai Tổng công ty lương thực Miền Bắc và
Miền Nam được giao nhiệm vụ đấu thầu, sau đó giao chỉ tiêu về cho các
công ty thành viên thực hiện. Các hợp đồng này chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng lượng gạo xuất khẩu hàng năm. Đấu thầu từ cuối năm trước,
nhưng việc giao gạo kéo dài trong suốt năm sau.
Thông thường, khi ký
những hợp đồng giao sau (future contract) kiểu này, thì để tránh rủi
ro, các DN xuất khẩu phải lập tức ký hợp đồng tương tự với các nhà cung
ứng trong nước. Coi như tay phải ký với người mua, tay trái ký với
người bán, hưởng chênh lệch giá. Nếu các DN ký hợp đồng kỳ hạn với nông
dân, như một dạng bao tiêu sản phẩm, thì nông dân sẽ yên tâm sản xuất.
Ngược
lại, DN cũng không phải lo lắng rằng đến kỳ hạn giao hàng thì giá lúa
trong nước đột ngột tăng khiến DN thua lỗ. Nghe thì rất hay, tuy nhiên
điều đó đã không xảy ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
DN cứ ký hợp đồng với nước ngoài, mà không có gì đảm bảo rằng đến kỳ
hạn giao hàng sẽ thu gom đủ số lượng với giá hợp lý.
Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến việc “nhà nông” không bắt tay được với “nhà DN”. Hoặc có bắt tay,
nhưng hễ giá nông sản tăng thì “nhà nông” sẵn sàng phá hợp đồng để bán
cho người khác với giá cao hơn, và hễ giá xuống thì lại đến lượt “nhà
DN” quay sang hành tội “nhà nông”.
Nhưng có thể lý giải
ngắn gọn thế này. Nước ta mới chuyển từ nền kinh tế tiểu nông sang nền
kinh tế hàng hóa không lâu, vì thế những giá trị được đề cao trong nền
kinh tế thị trường như giữ chữ tín, thực hiện cam kết chẳng hạn, cùng
các thiết chế khả dĩ buộc người ta phải giữ chữ tín, chưa thể định hình
một cách vững chắc là điều tất yếu.
Đòi hỏi nông dân và DN
thay đổi tư duy, ý thức ngay lập tức là chuyện viển vông, duy ý chí. Cứ
từ từ, rồi họ sẽ dần thay đổi - tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Ngoài
ra, còn có những yếu tố khách quan cũng tham gia gây khó khăn cho việc
DN ký hợp đồng với nhà cung ứng. Chẳng hạn, nếu ruộng đất được tích tụ
quy mô lớn, thì DN chỉ cần ký hợp đồng trực tiếp với một vài hộ nông
dân là đã có một lượng lúa lớn. Ở ta ruộng đất rất manh mún, nên chỉ
riêng việc DN ký hợp đồng với hàng trăm ngàn hộ nông dân đã là bất khả
thi, chứ chưa nói đến chuyện thực hiện hợp đồng ra sao.
Giữa nông dân và DN tất
nhiên phải sinh ra bộ phận trung gian là các thương lái – chỉ họ mới có
thể đến từng ruộng lúa của từng hộ gia đình để thu gom rồi cung ứng lại
cho các DN. Vai trò của tầng lớp thương lái này là hết sức quan trọng,
chứ họ không hề là tầng lớp ăn bám khiến giá gạo bị đẩy lên quá cao do
phải qua nhiều tầng nấc trung gian như người ta vẫn quy kết rất sai
lầm.
Chừng nào ruộng đất còn chưa tập trung, chừng đó tầng lớp
này còn tồn tại như một tất yếu khách quan. Họ sẽ chỉ biến mất, và tự
biến mất chứ không cần ai nhắc khéo, cùng với sự thủ tiêu tình trạng
ruộng đất phân chia manh mún. Đó cũng là quy luật kinh tế.
Như thế DN bất quá chỉ
có thể ký hợp đồng với cánh thương lái. Nhưng điều này cũng không khả
thi nốt, vì như đã nói ở trên, muốn tránh rủi ro thì thương lái phải ký
được hợp đồng kỳ hạn với nông dân, mà nông dân ta thì chưa quen ký tá
gì hết, cứ đến mùa tùy tình hình thị trường mà thuận mua vừa bán thôi.
Ai
cũng biết cung cách làm ăn thế này là hết sức rủi ro cho cả mấy “nhà”,
nhưng trình độ phát triển của nền sản xuất nước ta mới ở mức đó thì
không thể kỳ vọng cao hơn được.
Trước kia, giá lương
thực trên thế giới tương đối ổn định nên cung cách đó chưa gây hệ quả
nghiêm trọng cho các DN. Nhưng thời thế đổi thay, mấy năm nay giá lương
thực liên tục tăng, thành ra các DN thực hiện các hợp đồng Chính phủ
thường xuyên rơi vào nguy cơ thua lỗ, vì khi họ mua gom gạo để xuất thì
giá đã tăng lên khá nhiều so với lúc đấu thầu. Khi giá lương thực trên
thế giới tăng đột biến như vừa qua thì tình cảnh của họ càng bi đát.
Nếu
lúc này mà cho mọi DN ký hợp đồng xuất gạo thoải mái, thì nông dân sẽ
rất lợi, đất nước sẽ rất lợi, nhưng các DN thuộc 2 Tổng công ty kia
càng thua lỗ nặng nề.
Vì thế, không có gì ngạc
nhiên nếu như chính họ, thông qua Hiệp hội lương thực (Chủ tịch Hiệp
hội cũng chính là Tổng giám đốc TCT lương thực Miền Nam), tham gia đề
xuất hạn chế xuất khẩu gạo, nhằm giữ giá gạo trong nước không tăng quá
cao, dĩ nhiên là với lý do “đảm bảo an ninh lương thực, kìm hãm lạm
phát”.
Do giá đấu thầu đã chốt, và lại không ký được hợp đồng
kỳ hạn với nông dân, nên lẽ tự nhiên là thay vì mong giá gạo thế giới
tăng, các DN này chỉ mong sao giá gạo thế giới càng giảm càng tốt, kéo
giá gạo trong nước giảm theo, nhờ đó gia tăng lợi nhuận, bất chấp cuộc
sống khốn khó của hàng chục triệu nông dân.
Với tư cách là các
DN, họ mong muốn thế không có gì đáng lạ hay đáng trách – quy luật kinh
tế thị trường buộc họ phải làm thế nếu muốn tồn tại. Đáng trách là
những người khác!
|