18.11.2008 03:03
Nhân kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền (1948-2008) , Nhân 20 năm nhà nước Việt Nam (1988-2008) Đề Nghị: ĐCSVN và Nhà nước CHXHCNVN cho phép báo chí công bố nguyên văn Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc Nhân
kỷ niệm cách mạng tháng Mười, xin giới thiệu phần III và phần VI của
bài viết về sự hối hận cuối đời của Mác và Ănghen về cái “chủ nghĩa”
của mình Các bạn có thể theo đường link để đọc các phần còn lại Trần Trung Thực (SV Sử, nhóm Trần Hiền Thảo)
http://www.nationalistvietnameseforum.com/Nationalist%20Vietnamese%20Forum/Pages/article%20196.htm III. NHỮNG LỜI ĂN NĂN TỰ THÚ LỖI LẦM CỦA MARX - ENGELS KHI BƯỚC VÀO TUỔI GIÀ Những
vấn nạn mà Marx đặt ra cho các xã hội Âu Châu vào giữa thế kỷ 19, khi
Âu Châu vừa mới hoàn thành cuộc cách mạng kỹ nghệ để khai sinh ra các
quốc gia tư bản kỹ nghệ là tình trạng bất công xã hội với tầng lớp công
nhân thợ thuyền của giới chủ nhân là một sự kiện có thật. Lúc đó Marx
là một thanh niên 30 tuổi khi ông và Engels cho công bố bản Tuyên Ngôn
Cộng Sản (1848) để khích động hận thù và hết lời tâng bốc giới vô sản,
xúi dục họ tiến lên làm cách mạng để tiêu diệt tầng lớp tư sản và tư
bản tại các xã hội Âu Châu. Chính Marx đã cho rằng Chủ nghĩa Mác là một
tổng hợp của chính trị kinh tế nước Anh, CNXH Pháp, và triết lý Đức,
đặc biệt là triết lý Hegel, Kant và Fitche để khai sinh ra Chủ nghĩa
Mác . Trong
Tuyên Ngôn CS, Marx kêu gọi xóa bỏ tất cả quyền tư hữu, xóa bỏ tất cả
quyền thừa kế, xóa bỏ gia đình, xóa bỏ quê hương, xóa bỏ tất cả chân lý
vĩnh cửu, xóa bỏ tất cả tôn giáo và xóa luôn tất cả luân lý đạo đức của
xã hội con người để xiển dương giai cấp và chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Ngay trong Tuyên Ngôn đó, Marx đã tự để lộ ra cái kiêu khí quá độ khi
muốn xóa bỏ triệt để và toàn diện các giá trị lịch sử của văn minh nhân
loại để thế vào đó là những giá trị rất tầm thường và rất mơ hồ. Marx
không thể vừa tâng bốc giới vô sản và hứa là quyền lực chính trị tối
cao sẽ nằm trong tay họ, lại vừa mạt sát đám đông quần chúng chỉ là lũ
không có đầu óc (brainless). Marx là người chồng, người cha rất yêu
thương vợ con. Marx không thể nào sống xa Jenny (vợ Marx) và các con
được. Khi Jenny chết vì bệnh ung thư và các con còn nhỏ chết vì thiếu
thuốc, Marx đau đớn và buồn bã đứt ruột. Mái ấm gia đình là thiên đàng
của đời Marx. Điều đó rất tự nhiên, nhưng Marx lại kêu gọi mọi người
xóa gia đình. Vì thế Tuyên Ngôn Cộng Sản và Chủ nghĩa Mác với một nội
dung đầy xung đột, đầy mâu thuẫn, đầy sự chia rẽ, và đầy những cách
biệt chia lìa giữa người và người. Marx thường nói với Jenny và Laura,
người con gái Marx thương yêu nhất đời, điều Marx ghét nhất là sự nhẹ
dạ, sự phục tùng và nô lệ. Nhưng trong cách mạng CS, các lãnh tụ CS đã
bắt bao triệu con người phải phục tùng rất tàn bạo và sau đó thì nô lệ
hóa cả 27 quốc gia, hơn 2 tỉ người để rồi cuối cùng đánh mất luôn ý
nghĩa, mục tiêu và định hướng XHCN của cách mạng (viết theo Eugene
Kamenka "The Portable Karl Marx). Vì
thế, Karl Kautsky và Rosa Luxemburg đều cho rằng: "Marx, nói một cách
thật giản dị, chỉ là một tư tưởng gia xuất chúng, nhưng chỉ có khả năng
làm nên những lầm lạc." Riêng Berstein thì cho rằng, "thật quá hiển nhiên là chúng ta cần tìm biết xem Marx đúng và sai ở chỗ nào". MARX - ENGELSTrong
một công trình nghiên cứu tỉ mỉ của Robert Wesson cho thấy ngay cả
Engels là người đã ký chung với Marx trong Tuyên Ngôn Cộng Sản, trong
bài: "Outline of a Critique of Political Economy", Engels đã viết: "Điều
tôi biết rất rõ ràng là ngày nay Chủ nghĩa Mác là những gì quá cổ lỗ,
lỗi thời, và nó không chỉ có toàn là lỗi lầm, mà thực ra chỉ là những
tiếng tru tréo gào thét" (I know only to well that is now quite superannuated and full not only mistake but actual howlers ). Trong những bài viết trên những tờ báo cũ tìm thấy, có lần Engels phê phán rằng: "phần lớn công trình được viết ra ngày nay chẳng có lợi lộc gì cả". Trong
"Anti Duhring", Engels thú nhận: "Thứ ngôn ngữ rất khó hiểu của Hegel
về nhiều thứ rất hay, qua đó tôi đã viết trong sách cũ của tôi. Không
chỉ không thể chuyển ngữ mà nó còn đánh mất phần lớn ý nghĩa ngay tại
nước Đức." Riêng
Karl Marx, Wesson cho biết, vào những năm cuối đời Marx là một thị dân
đã về hưu không còn sửa soạn để dành cho cách mạng trong Xã-Hội kỹ nghệ
tây phương nữa, nơi đó Marx đã mơ màng đợi chờ một cái gì đó như
XHCN (socialism) sẽ đến trong diễn biến hòa bình của Tiến Trình Dân
Chủ. Trong cùng năm đó, Marx đã quay lưng với cái vẻ vang của Ba Lê
Công Xã, lòng tự nhủ rằng Ba Lê Công Xã với đặc tính bạo lực của nó đã
không và sẽ không thể là con người XHCN được ( Marx turned his back on the once - glorified Paris Commune, stating that it was not and could not have been socialist). Một Marx trong tuổi già đã khước từ chủ nghĩa Mác (The elderly Marx practically renounced Marxism) (Robert Wesson "Why Marxism", (1976) Basic Book, Inc. Publisher, New York, p. 36). Khi bước vào tuổi già, Marx đã cho tan hàng đám đệ tử theo ông và nói với họ lời sau chót: "Tất cả những gì tôi biết là tôi không phải là người Marxist" ( All I know is that I am not a Marxist ). Engels đã tạ lỗi về việc đã đề cao quá lố về những giá trị kinh tế:
"Marx và tôi phải tự trách chính chúng tôi về một số sự kiện đã xảy ra
khi những người cầm viết còn quá trẻ nhiều khi đã đề cao quá lố về
những yếu tố kinh tế, thay vì đặt đúng vị trí giá trị của nó. Chúng tôi
cũng đã quá độ với những kẻ đối nghịch với chúng tôi về sự đối lập trên
những nguyên tắc kinh tế." Càng
về già, Engels càng thực tế hơn khi ông đã rút lại chủ trương bạo lực
cách mạng. Thay vì xử dụng bạo lực, Engels đã hy vọng vào những giải
pháp chính trị là những gì sẽ đem đến nhiều lợi lộc thiết thực cho đám
đông quần chúng. Vào 1885, Engels đã tuyên bố rằng: " kể từ năm 1848,
nghị viện Anh, thật không còn gì nghi ngờ nữa. ĐÓ LÀ CUỘC CÁCH MẠNG TỐT
ĐẸP NHẤT TRÊN THẾ GIỚI. Và cuộc bầu cử sắp tới sẽ mở ra một chu kỳ mới,
dù sự kiện này nhiều người chưa biết. Rồi đây những công nhân thợ
thuyền sẽ có chân trong nghị viện (Common House). Vào
năm 1895, Engels đã sửa soạn chấp nhận xét lại mọi điều trên tầm mức
rộng lớn, bởi vì ông đã khám phá ra rằng những giải pháp của pháp lý sẽ
tốt đẹp hơn là không có luật pháp gì cả; ông thừa nhận sức mạnh của
Chủ-Nghĩa-Tư-Bản và rút lại cuộc nổi dậy mà Marx - Engels đã chờ đợi từ
lâu nay đã không còn giá trị nữa. Cách mạng sẽ có những tác động mạnh
mẽ, đó là cách mạng phải trở thành các nhà cải cách Dân Chủ Xã Hội (Democratic Socialist Reformers). Trên
thực tế nhiều sự kiện xảy ra cho thấy sau 1875 nhiệt tình dành cho Chủ
nghĩa Mác đã nguội dần. Những công nhân thợ thuyền trong các quốc gia
kỹ nghệ đã được bảo đảm bằng sức mạnh lá phiếu của họ và họ đã bắt đầu
xử dụng quyền chính trị này, với sự chấp thuận hoàn toàn của Engels, họ
đã tìm được tự do dân chủ, nhất là những cải cách pháp lý đã được bảo
đảm của hiến pháp quốc gia dân chủ. Vì vậy từ sự lớn mạnh và sự thu hút
của các cử tri, các đảng xã hội, nhiệt huyết cách mạng cũng nguội lạnh
dần để quay qua tìm mọi các để được các cử tri chú ý, và họ đã có những
chính sách để cuốn hút không chỉ giới công nhân thợ thuyền mà cả mọi
tầng lớp tư sản, bao gồm luôn các thợ thủ công, giới tiểu thương, nông
dân hay các nhà giáo. Các đảng phái xã hội của Âu Châu lớn dần từ đó để
cùng các công nhân thợ thuyền hân hoan bước vào một đời sống chính trị
tự do dân chủ pháp trị để bảo đảm cho công lý và quyền bình đẳng của
mọi người. Trên
những sự thực hiển nhiên đó, Engels đã thẳng thắn nhìn nhận trong trang
mở đầu của Marx viết về Ba Lê Công Xã, ấn bản 1895 Engels tự thú: "Sự
thực lịch sử đã chỉ rõ cho thấy là chúng tôi đã sai lầm rồi (history
showed we were wrong). IV.NHỮNG VẤN NẠN CỦA GIỚI VÔ SẢN TẠI ÂU CHÂU ĐÃ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT SAU KHI MARX NẰM XUỐNG NĂM 1883 Thưa quý-vị và Toàn-Thể Đồng-Bào. Cái
chết của Marx đã đến trên sự thất bại của cả đời ông, kể cả những hoạt
động cách mạng cũng chẳng đi đến đâu. Giới tư bản Âu Châu đã âm thầm
giải quyết những vấn nạn của giới vô sản bằng sự hợp tác và ổn định.
Giới công nhân thợ thuyền quay lưng với bạo lực và tranh đấu giai cấp
để tiến đến sự hợp tác với tất cả thành phần xã hội khác và đoàn kết
quốc gia của họ. Cả Âu Châu đã khôn ngoan và sáng suốt thoát ra ngoài
cơn lửa đỏ đầy lầm lạc của bạo lực và hận thù của cách mạng CS do Marx nông nổi viết ra lúc còn quá trẻ, và đã ăn năn tự thú lúc về già. Tiếc
thay Việt Nam, Nga Sô và 27 quốc gia nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu đã
không biết đến những lời thú tội ăn năn lỗi lầm của Marx - Engels, và
cũng không học được bài học của các NHÀ CẢI CÁCH XÃ HỘI DÂN CHỦ của các
nước Âu Châu khi họ giải quyết những vấn nạn xã hội để chấm dứt mọi bất
công và chấm dứt sự khổ đau cho tầng lớp công nhân thợ thuyền mà Marx
đã nêu ra. Đảng
Lao Động Anh đã xuất hiện vào năm 1890 với tinh thần dân chủ tiến bộ để
nâng cao ngọn cờ dân chủ nghị viện (parliament democracy) cho toàn thể
giới công nhân thợ thuyền và cả Âu Châu bừng tỉnh trước sự đe dọa của
bạo lực và hận thù giai cấp đang lan tràn trong giới vô sản và tầng lớp
trí thức Âu Châu. Âu
Châu sau cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution) là giai đoạn
chuyển tiếp của những Xã-Hội phong kiến nông nghiệp sang kỹ nghệ. Đây
là thời kỳ phôi thai của khoa học và kỹ nghệ nên con người đang đứng
giữa những cái cũ và cái mới. Marx cũng như Saint Simon, Fourier,
Proudhon, Blanqui, và Bukania đều là những khuôn mặt nổi bật cho khuynh
hướng mới của thời đại - khuynh hướng xã hội (socialism). Marx - Engels
gọi những người khác đang theo lý tưởng XH là thứ "ngu xuẩn và khờ
khạo"; chỉ có họ mới thực sự là thứ chủ nghĩa xã hội khoa học
(scientific socialism) mà thôi. Robert Wesson nhận thấy Chủ nghĩa Mác
là một thứ tôn giáo phàm tục (secular religion) dành cho những con
người đã mất hẳn niềm tin vào các giá trị siêu nhiên. Chàng
tuổi trẻ thiên tài Karl Marx bị mê hoặc bởi các làn sóng tư tưởng vô
thần của Nhóm Bách Khoa Paris. Đặc biệt là cách mạng Pháp và cách mạng
kỹ nghệ đã khuấy động năng lực trí thức của Marx đến tận cùng và làm
cho Marx muốn phá hủy tất cả mọi giá trị cũ, nhưng lại không biết làm
thế nào để xây nên những giá trị mới. Marx học triết lý Hegel, Kant và
Fitche nhưng cố tình đảo ngược tất cả, nhất là giá trị thần học của các
dòng triết lý ấy. Về phương diện chính trị, Marx học nơi cách mạng Pháp
rất nhiều, nhưng chỉ rút ra được tính chất bạo lực và hận thù của cách
mạng ấy. Trong khi ấy những dòng tư tưởng chính trị trác việt của
Rousseau thì Marx không chịu noi theo. Về kinh tế, Marx học của nước
Anh, nhưng những gì Adam Smith đưa ra để làm cho Anh - Mỹ giầu có hùng
cường tột cùng thì Marx lại muốn lật đổ bằng bạo lực cách mạng. Cả
phương diện triết lý, chính trị và kinh tế của Đức - Pháp và Anh đều có
những giá trị rất tuyệt vời, nhưng Marx không thèm để ý đến những thực
tế đó, và chỉ diễn dịch và phân tích theo thành kiến của riêng Marx mà
thôi để tự làm hại đời mình và người khác. Hoàn cảnh lịch sử của Âu Châu vào thế kỷ 19 chỉ có hai lựa chọn: Một là bạo lực và hận thù giai cấp của cách mạng CS. Hai là chấp nhận thành các NHÀ CẢI CÁCH XÃ HỘI DÂN CHỦ
(democratic socialist reformers). Tuy nhiên, theo Wesson, vào 1850 Marx
đã nhìn dân chủ như một trở ngại chính cần phải phá hủy. Trong thư gởi
cho Engels, Marx viết: "chỉ có con bò khờ khạo mới tin vào tương lai
của một nhà nước dân chủ (that dumb ox believes in the future of
democratic state). May
mắn thay ! Chỉ 25 năm sau, tức vào 1875 cả Marx và Engels đều sáng suốt
nhận thấy rằng bạo lực và hận thù là lầm lẫn. Theo hai người muốn xây
dựng XHCN thì phải đi vào tiến trình dân chủ. Ngay từ 1750
Bernstein nhận định rằng CNXH nên tiến bước tới tự do và bình đẳng bằng
một tiến trình chính trị, với sự hợp tác, giáo dục và tổ chức nghiệp
đoàn để tạo trật tự Xã-Hội trên căn bản của những nguyên tắc hợp tác
giữa mọi thành phần Xã-Hội. Còn
Sombart thì nhận định vào 1909 như sau: "Một người nào đó duyệt xét lại
các công trình về Xã-Hội của các học giả vào thời điểm đó, hay đọc qua
cách mạng CS, nhưng không ai còn tin vào nó nữa. Tất cả vẫn chỉ là bút
mực, và nó không có sinh khí của đời sống. Thật không sao hiểu được rõ
ràng CNXH là cái gì vậy? Hay là nó có dính dáng tới "quốc hữu hóa" hoặc
"chiến tranh giai cấp". Và đây là một sự thất vọng không thể trả lời
được về một nửa thế kỷ tuyên truyền để rồi chẳng được cái gì cả (R.
Wesson, p. 58). Chủ nghĩa Marx là một chủ đề để cho các nhà Xã-Hội học chỉ trích rất nghiêm khắc về "sự thiếu vắng một nội dung đạo đức (lack of ethical content) trong Chủ nghĩa Mác và nói về con người thì rất mơ hồ (p. 59)." H. G. Wells là một con người Xã-Hội với tất cả sự tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác , rồi cuối cùng phải đưa ra nhận xét: "Hầu
như tất cả những ai được coi là tư tưởng gia vào thời điểm đó đều đã
chối từ Chủ nghĩa Mác , và họ đã tuyên bố với nhau rằng, họ đều phải
nhìn nhận một sự kiện có thật là việc đưa đến sự giầu có trong sản xuất
thời hiện đại không chỉ đến từ những giá trị lao động của người công
nhân, mà bằng sự nối kết và hợp tác với nhiều giá trị lao động khác
nhau nơi các thành phần Xã-Hội khác nhau; chỉ có đường lối đó mới có
hiệu năng tốt đẹp được mà thôi. Vào 1911 Paul Weisen Griin đã đưa ra nhận xét: "Tất
cả những tâm hồn thật sự sáng suốt giác ngộ tại Âu Châu bây giờ đều
nhìn nhận một sự kiện thực tế là -- Chủ nghĩa Mác đang tiến gần về ngõ
cụt của nó ( Marxism is nearing its end ). Wesson
thì cho rằng, từ đệ I thế chiến nhiều câu hỏi đã đặt ra cho nền văn
minh Âu Châu. Trong lúc Chủ nghĩa Mác không còn là một quyền lực đã
được định mệnh sắp sẵn để nhào nặn bài học lịch sử cho tương lai. Chủ
nghĩa Mác trong tất cả mọi hình thức đã tiêu pha hết sinh lực và sinh
khí vì quá già cỗi. Nhưng Chủ nghĩa Mác đem thứ chính trị nào cho các
quốc gia chưa phát triển, họ cần một chính phủ có đạo đức và tài năng
để giúp cho văn hóa và kinh tế phát triển và tiến bộ? Bài học CS với
những hứa hẹn rất hấp dẫn, nhưng đã chối bỏ mọi thực tế, và điều quan
trọng đặt ra chính là cải tổ chính trị. Các
quốc gia nghèo khó không có khả năng để thực hiện XHCN, như đã nói, nó
chỉ có khả năng giữ họ lại để thường xuyên phải đối mặt với những vấn
để khó khăn không giải quyết được - bởi vì thiếu gốc rễ, và đã đánh mất
khả năng sáng tạo. Hứa hẹn giải phóng bằng quyền lực độc ác, dẫn thế
giới đi vào sự hẹp hòi, tự lừa gạt và độc ác, chính thống hóa bạo lực,
đưa bạo lực vào Xã-Hội, được cơ cấu hóa, công an, tù tội, kiểm soát tất
cả văn hóa, tôn giáo, kinh tế và giáo dục. Chủ nghĩa Mác chỉ cho người
ta toàn là sáo ngữ. Trần Trung Thực (SV Sử, nhóm Trần Hiền Thảo)
|