Bài của Michael Richardson
Ngày
15-11-2008
http://japanfocus.org/_Michael_Richardson-A_Southward_Thrust_for_China___s_Energy_Diplomacy_in_the_South_China_Sea
Permanent Link
Trung
Quốc và Việt Nam đã phác thảo các bước đi mới nhằm giải quyết những tranh cãi về
lãnh thổ kéo dài trên Biển Đông trong một nỗ lực ngăn chặn xung đột hơn nữa và
đặt các mối quan hệ của mình vào một vị thế thăng bằng vững vàng hơn cho tương
lai. Mặc dù cả hai quốc gia đều được cai trị bởi các đảng Cộng sản và cùng chia
sẻ những tuyến biên giới dài rộng trên đất liền và ngoài biển, song họ đã có một
muối quan hệ căng thẳng. Nhưng giờ đây hai quốc gia này đang đối mặt với những
thách thức chính trị trong nước khi các nền kinh tế hướng-tới-xuất-khẩu và đầu
tư của họ bị chậm lại dưới ảnh hưởng của tình trạng rối loạn tài chính toàn cầu
và cơn suy thoái đang trầm trọng thêm. Họ rõ ràng đã quyết định đưa lên vị trí
ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố mối quan hệ song phương giữa hai đảng, trong
thương mại và đầu tư để bù đắp cho sự suy sụp kinh tế rộng lớn hơn.
Biện
pháp mới nhất nhằm cải thiện các mối quan hệ đã nổi lên qua chuyến viếng thăm
Trung Quốc của Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng, từ ngày 20 đến ngày 25 tháng
Mười. Đó là chuyến thăm chính thức đầu tiên trên cương vị thủ tướng của ông và
đã xảy ra trước hội nghị thượng đỉnh Á-Âu tại Bắc Kinh. Ông Dũng đã tiến hành
các cuộc thảo luận với người đồng cấp Trung Quốc của mình, Thủ tướng Ôn Gia Bảo,
và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Một tuyên bố chung được đưa ra cuối chuyến
thăm đã cho thấy hai bên tin tưởng rằng "để mở rộng và làm sâu đậm hơn quan hệ
hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam trong bối cảnh của tình hình
chính trị và kinh tế quốc tế phức tạp và đang thay đổi là nằm trong những mối
quan tâm chủ yếu của hai quốc gia, hai đảng cầm quền và của nhân dân và có lợi
cho hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới" (Tân Hoa Xã,
ngày 25 tháng Mười).
Theo
kế hoạch, các công ty của Trung Quốc và Việt Nam sẽ được khuyến khích để hình
thành nên những liên doanh và hoạt động trong những dự án có quy mô lớn trong
xây dựng cơ sở hạ tầng, hoá chất, giao thông, cung ứng điện năng, và xây dựng
nhà cửa. Mục tiêu của những dự án này, cũng như các mối quan hệ mới về phát
triển đường bộ, đường sắt và đường biển, là nhằm liên kết các tỉnh láng giềng
phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Đây là một phần của mạng lưới các tuyến
quốc lộ đang lớn dần nối kết Trung Quốc với Đông nam Á. Quá trình mở rộng các
mối quan hệ kinh tế được đề ra sẽ phụ thuộc vào bước tiến bộ trong việc kiềm chế
và dần dần giải quyết những xung đột lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Cả
hai bên đã xác nhận một lần nữa rằng họ sẽ hoàn tất việc phân định ranh giới cho
tuyến biên giới trên đất liền dài 1.350km vào cuối năm nay, một thời hạn cuối
cùng vốn đã được xác định là năm 1999. Nét mới trong bản tuyên bố chung này là
một thỏa thuận khởi động những khảo sát địa hình chung trong những vùng biển
đang tranh chấp bên ngoài cửa Vịnh Beibu (Vịnh Bắc Bộ) vào một thời điểm sớm và
một sự hứa hẹn cùng khai thác những khu vực đã được phân ranh giới cho nghề cá
và dầu lửa, khí gas của hai nước (Tân Hoa Xã, ngày 25 tháng Mười).
Những khoản đặt cược trên Biển Đông
Những
vấn đề về lãnh thổ có khả năng gây bất đồng và khó giải quyết nhất trong quan hệ
giữa Trung Quốc và Việt Nam là nằm bên ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Những tranh cãi
này xoay quanh các tuyên bố đối nghịch đòi chủ quyền tối cao đối với Quần đảo
Hoàng Sa, trong phần phía bắc của Biển Đông, và Quần đảo Trường Sa, gồm nhiều
đảo và vỉa san hô rải rác trong một vùng rộng lớn ở giữa Biển Đông. Hoàng Sa đã
bị Trung Quốc chớp lấy từ tay quân lực Nam Việt Nam năm 1974 trong những giai
đoạn sắp kết thúc của cuộc Chiến tranh Việt Nam, khi Hà Nội và Bắc Kinh được cho
là những đồng minh của nhau. Lực lượng quân sự Trung Quốc kể từ đó đã tăng cường
các đơn vị đồn trú của mình tại Hoàng Sa và cho xây dựng một căn cứ không quân
tại đó, củng cố vị trí vững chắc của mình căn cứ vào những gì được Bắc Kinh xem
như là một tiền đồn chiến lược ở đông nam đảo Hải Nam và tuyến đường nằm trong
khoảng giữa Việt Nam và Philippines.
Quần
đảo Trường Sa nằm về phía đông của tuyến hải hành quốc tế nhộn nhịp trên Biển
Đông nối liền Eo biển Malacca và Singapore ở Đông nam Á với Trung Quốc, Nhật
Bản, và Nam Triều Tiên, là những nền kinh tế caccsc ngành công nghiệp phải nhập
khẩu dầu lửa là chính ở Đông nam Á. Quyền kiểm soát Trường Sa có lẽ được sử dụng
không phải chỉ để thiết lập hoạt động tuần tra của hải quân trên biển và các căn
cứ giám sát mà còn trợ giúp cho những yêu sách đánh bắt hải sản và các nguồn đầu
lửa và khí gas ngoài khơi trong một khu vực rộng lớn của Biển Đông. Trung Quốc,
Đài Loan và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trường Sa, những vùng biển
bao quanh và bất cứ nguồn tài nguyên nào có thể ẩn chứa trong đó. Tuy nhiên, đòi
hỏi của Trung Quốc là rộng lớn hơn nhiều, bao gồm hầu như toàn bộ Biển Đông, mặc
dù những giới hạn chính xác là không được rõ ràng từ đường gấp khúc được vạch ra
trên những bản đồ chính thức của Trung Quốc. Đài Loan minh định một yêu sách
tương tự. Malaysia, Philippines và Brunei khẳng định chủ quyền tối cao đối với
một số hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa cũng như những vùng biển ngoài khơi và
nguồn tài nguyên gần bờ biển của mình nhất. Đã có một vài vụ đụng độ vũ trang và
nhiều biểu hiện lảng tránh đối đầu trong số các bên khẳng định yêu sách trong
suốt hai thập kỷ qua. Những cuộc chạm trán quan trọng nhất đã lôi kéo sự tham
gia của Trung Quốc và Việt Nam. Năm 1988, hai nước này đã giao tranh trong một
trận hải chiến chớp nhoáng ở gần một trong những dải đá ngầm thuộc Trường Sa.
Tại
quần đảo Trường Sa, các đơn vị vũ trang đồn trú-mà tất cả các bên yêu sách chủ
quyền (ngoại trừ Brunei) đã cho thiết lập tại những cứ điểm nhỏ trên đảo nơi họ
tự nhận là của mình-vẫn không hề suy suyển, và trong vài trường hợp, đã được
tăng cường. Một tập hợp các quy tắc ứng xử trên Biển Đông, được ký kết bởi Bắc
Kinh và ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông nam Á) năm 2002, là tự nguyện. Một
cuộc khảo sát đo đạc địa chấn chung về các nguồn tài nguyên hydrocarbon, được
thỏa thuận năm 2005 bởi các công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, và
Philippines *, đã trôi qua tháng Bảy trước và có thể không được tái lập. Thậm
chí khi nó sẵn sàng hoạt động, cuộc khảo sát địa chấn tay ba cũng không bao gồm
ba quốc gia khác cùng có yêu sách chủ quyền Trường Sa **. Ngoài ra, nó chỉ bao
trùm một phần nhỏ thuộc vùng biển còn đang tranh cãi.
Trong
bản tuyên bố chung ngày 25 tháng Mười của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã thỏa
thuận tìm kiếm một giải pháp "cơ bản và dài lâu" cho vấn đề Biển Đông sao cho có
thể chấp nhận được lẫn nhau. Không có chi tiết nào được đưa ra về việc làm cách
nào mà một giải pháp như vậy lại có thể đạt được. Thế nhưng, với một ý nghĩa đặc
biệt, họ cho biết rằng nó sẽ phù hợp với Quy ước về Luật Biển của Liên hiệp quốc
năm 1982 (UNCLOS). Trong khi đó, họ phải tuân theo tập hợp các nguyên tắc ứng xử
và tự kiềm chế trước bất cứ hành động nào có thể làm phức tạp thêm hay leo thang
các cuộc tranh cãi. Họ còn phải tham khảo để tìm ta một khu vực và phương pháp
thích hợp cho việc thăm dò dầu khí chung. Trên nguyên tắc của việc khởi sự với
những bước dễ dàng hơn, họ đã thỏa thuận hợp tác trong việc nghiên cứu đại
dương, bảo vệ môi trường, dự báo thời tiết, và trao đổi thông tin giữa hai lực
lượng vũ trang [1]. Một hiệp ước hợp tác chiến lược giữa
tập đoàn dầu khí nhà nước China National Offshore Oil Corporation (CNOOC) và đối
tác Việt Nam, PetroVietnam, cũng có tin là đã được ký kết trong chuyến viếng
thăm của ông Dũng tới Trung Quốc. Cùng lúc, các hiệp ước này sẽ là những giải
pháp kiềm chế lẫn nhau và xây dựng lòng tin, miễn là các điều khoản của chúng
được tuân thủ một cách nghiêm ngặt và kiên định từ cả hai bên - điều chưa từng
là một nét đặc trưng trong các thỏa thuận trước đây giữa Trung Quốc và Việt Nam
về Biển Đông.
Các tình tiết đã thay đổi
Tuy
nhiên, một vài điều có thể đã thay đổi vào thời điểm này, ngoại trừ mong muốn
xây dựng các mối quan hệ kinh tế song phương nhằm làm dịu những tình trạng rối
loạn toàn cầu ảnh hưởng tới cả hai nước. Bắc Kinh muốn tháo ngòi nổ cho mối quan
ngại đang lan rộng tại Á châu về việc tăng cường tiềm lực quân sự của mình và
nỗi lo rằng sức mạnh quân sự sẽ được sử dụng để đòi cho được các yêu sách chủ
quyền trên vùng ranh giới đất liền và biển mà Trung Quốc có với nhiều quốc gia
láng giềng, trải rộng từ Nhật Bản qua Đông nam Á cho tới Ấn Độ. Trong bối cảnh
này, Biển Đông là một viên đá thử nhạy cảm. Vào tháng Mười năm 2008, không lâu
trước khi thủ tướng Việt Nam tới Bắc Kinh, Trung Quốc đã cấm đội tàu đánh cá của
mình, thuộc hàng lớn nhất trên thế giới, được hoạt động trong vùng biển còn đang
tranh chấp với các quốc gia láng giềng. Những tranh cãi quanh vùng đánh bắt hải
sản trong những năm gần đây không chỉ thử thách Trung Quốc trong cuộc tranh đấu
với Việt Nam. Họ còn trở nên kích động hơn trong các mối quan hệ với Bắc và Nam
Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines và Indonesia. Trên Biển Đông, các ngư dân
Trung Quốc đã bị Philippines cầm giữ, vì bị cho là đã đánh bắt cá bất hợp pháp
trong những vùng biển được Manila yêu sách chủ quyền gần Quần đảo Trường Sa.
Những vụ rắc rối tương tự với Việt Nam đã được loan tin. Chính phủ Trung Quốc,
Hội đồng Nhà nước [?], đã đưa ra chỉ dẫn cho các giới chức bảo vệ bờ biển và
nghề cá cho ngừng các tàu thuyền đánh bắt, không đi vào "những vùng biển nhạy
cảm có vị trí then chốt" [2].
Nhân
tố mới khác là sự sút giảm quá mức trong thời gian gần đây của giá dầu lửa và
khí gas tự nhiên, đã làm mất đi một vài nguồn động viên cho các công ty dầu khí
khi thăm dò trong những vùng biển thường sâu hơn, xa bờ hơn nữa trên Biển Đông.
Xung quanh thời điểm đó, Trung Quốc đã yêu cầu tập đoàn khổng lồ ở Hoa Kỳ
ExxonMobil từ bỏ các dự án thăm dò dầu khí ngoài khơi Việt Nam với PetroVietnam,
ngụ ý rằng nếu tập đoàn này không nghe thì nó có thể sẽ không được ưa thích
trong hoạt động tại Trung Quốc. Một ngườip phát ngôn của bộ ngoại giao Trung
Quốc đã nói rằng Trung Quốc phản đối bất cứ hành động nào "xâm phạm tới chủ
quyền lãnh thổ của mình, quyền tối cao hoặc quyền lợi hành chính trong vùng Biển
Đông" [3].
Theo
sau cảnh báo tương tự từ Bắc Kinh, năm ngoái BP cũng đã tạm dừng những kế hoạch
thực hiện các hoạt động thăm dò cùng với PetroVietnam ngoài khơi phía nam Việt
Nam, viện dẫn những căng thẳng về lãnh thổ. Đây cũng nằm trong một lô thăm dò
được Việt Nam chấp thuận song bị phía Trung Quốc tranh cãi, cách bờ biển khoảng
370km và nằm ở rìa ngoài Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam, giữa Việt Nam và
Quần đảo Trường Sa. Với tình trạng giá dầu sút giảm xuống mức 60 đô la một
barrel tại một thời điểm trong tháng Mười, trong lúc mức tăng trưởng toàn cầu
đang chậm lại, đã làm ảnh hưởng tới nhu cầu, thì cuộc đua tranh các nguồn tài
nguyên hydrocarbon ngoài Biển Đông đã mất đi ít nhiều sức cuốn hút của nó. Tình
hình này đã tạo nên cơ hội cho một trạng thái đình hoãn chính trị, cho phép
Trung Quốc và Việt Nam đứng ra cùng với những biện pháp hòa giải hơn.
Bãi chiến trường Tài nguyên Năng lượng
Điều
gì có thể phá vỡ trạng thái cân bằng mong manh trên Biển Đông và làm sống lại
những vấn đề dễ gây xúc động về chủ quyền quốc gia, uy thế và niềm kiêu hãnh?
Nguy cơ lớn nhất là sự phục hồi kinh tế, tăng trưởng nhanh và một sự trỗi dậy
đòi hỏi mạnh mẽ về năng lượng tại Á châu sẽ lại đẩy Trung Quốc và các láng giềng
Đông nam Á của nó vào cuộc tranh đấu. Sản lượng dầu lửa và khí gas của Trung
Quốc đã và đang không đáp ứng đủ để giữ những bước đi cùng với sức tiêu thụ đang
dâng cao, và có những lo lắng cho rằng lượng dự trữ hiện tại sẽ không còn đủ duy
trì được lâu hơn nữa. Những mối quan ngại này được các nhà cung cấp dầu khí trên
Biển Đông trong đó có Việt Nam, Malaysia, và Indonesia chia sẻ. Các nước này
hiện tại là những nhà xuất khẩu ròng dầu lửa hoặc khí gas hoặc cả hai, song có
thể nhìn thấy thời gian đang tới gần khi mà năng lượng dự trữ của họ sẽ không
còn đủ để đảm bảo cho nhu cầu trong nước. Các nước này muốn mở rộng lượng dự trữ
của mình để thoát khỏi tình trạng sống còn bằng cách tìm kiếm nhiều dầu khí hơn
nữa. Như tại Trung Quốc, đây là một nền kinh tế mà tăng trưởng được coi là mệnh
lệnh cũng như một nền an ninh năng lượng cấp bách do dầu lửa và khí gas là vấn
đề sống còn cho giao thông vận tải và nền công nghiệp. Trong khi đó,
Philippines, một nhà nhập khẩu cuối cùng cả dầu lửa và khí gas, đang mong muốn
cấp bách tìm kiếm thêm nguyên liệu hóa thạch và coi những khu vực ngoài khơi
Biển Đông như là một chìa khóa đi tới khả năng độc lập tự chủ lớn hơn trong
tương lai [4].
Đối
với chính phủ Trung Quốc, chính sách năng lượng đã trở thành một nhánh trong
chính sách đối ngoại. Từ việc là một nhà xuất khẩu dầu hoàn toàn vào năm 1993,
Trung Quốc ngày nay đã phải dựa vào các nguồn cung cấp nước ngoài cho khoảng một
nửa lượng dầu sử dụng của mình. Họ cũng đang trở thành một nhà nhập khẩu khí gas
lớn. Vì những lý do về an ninh năng lượng, Trung Quốc đã thiết lập một quyền ưu
tiên đặc biệt cho việc có được càng nhiều dầu khí đến mức có thể cho tương lai
của mình từ bên trong lãnh thổ trên đất liền, từ ngoài khơi, hay gần lãnh thổ
nước mình đến mức chấp nhận được, bao gồm Nga và Trung Á. Hiện tại, khoảng 75%
lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc đến từ những khu vực không ổn định về chính
trị ở Trung Đông và Phi châu [5]. Họ buộc phải chuyển vận
tới Trung Quốc qua những tuyến hàng hải xa xôi, nơi mà lực lượng vũ trang Trung
Quốc còn chưa có những phương tiện để bảo vệ. Những tuyến giao thông đường biển
huyết mạch cho nguồn cung cấp năng lượng này có thể bị cắt đứt trong một cuộc
khủng hoảng.
Trong
khi đó, Trung Quốc, khách hàng năng lượng lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, muốn tăng
cường tiêu thụ khí gas nhằm giảm mức nhờ cậy nhiều vào than đá, là thứ gây nên
tình trạng ô nhiễm không khí trầm trọng. Các quốc gia Đông nam Á cũng đang
chuyển hướng dùng khí gas sạch hơn khi đốt cháy trong một phương cách quan trọng
để sản xuất điện năng, và cung cấp cho nền công nghiệp và sử dụng trong gia
đình. Việc sử dụng khí gas tự nhiên trong các nước châu Á được dự báo sẽ tăng
lên vào khoảng 4,5% trung bình mỗi năm cho tới năm 2025 - nhanh hơn bất cứ thứ
nhiên liệu nào khác - với hầu như một nửa mức này là đến từ Trung Quốc. Nếu như
tỉ lệ gia tăng đó được duy trì, thì nhu cầu của châu Á sẽ vượt quá 21 nghìn tỉ
feet khối vào năm 2025, gần gấp ba mức tiêu thụ hiện thời.
Biển
Đông được tính toán là có lượng khí gas khổng lồ, nhiều hơn so với tiềm năng dầu
lửa. Hầu hết các mỏ hydrocarbon được thăm dò trên các khu vực của Biển Đông
thuộc Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, và Việt Nam, cũng như Trung
Quốc, đều chứa khí gas, không có dầu lửa. Những ước đoán của cơ quan Khảo sát
Địa chất Hoa Kỳ cho biết rằng khoảng 60 tới 70% nguồn tài nguyên hydrocarbon
trong khu vực là khí gas. Tuy nhiên, một tỉ lệ quan trọng với hơn sáu triệu
barrel dầu lửa mỗi ngày đã được sản xuất bởi Trung Quốc và các quốc gia Đông nam
Á là đến từ khu vực Biển Đông. Một quy mô lớn hơn trong sản lượng khí gas của
khu vực với tám tỉ feet khối mỗi ngày đến từ vùng lòng chảo của Biển Đông, mặc
dù không có sẵn những số liệu chính xác. Những ước đoán của Trung Quốc về toàn
bộ tiềm năng dầu lửa và khí gas trên Biển Đông có khuynh hướng cao hơn nhiều so
với ước đoán của các nhà phân tích không phải của Trung Quốc
[6]. Giá cổ phiếu tăng cao nhất từ những ước đoán của Trung Quốc gợi lên
những nguồn dầu lửa tiềm năng cao tới 312 tỉ barrel dầu, gần gấp bốn mươi lần
trữ lượng dầu được chứng minh của Trung Quốc với 15,5 tỉ barrel vào cuối năm
2007. Đối với khí gas, sản lượng tiềm tàng được đánh giá bởi những ước đoán lạc
quan nhất của Trung Quốc là trên 2 triệu tỉ feet khối, mặc dù chỉ khoảng một nửa
trong số đó là có thể thu được, ngay cho dù các mỏ trên những lớp địa tầng này
được tìm ra. Trữ lượng khí gas được chứng minh của Trung Quốc vào cuối năm 2007
là 67 nghìn tỉ feet khối [7].
Cú
đột phá Về hướng Nam của Trung Quốc
Sự
nổi lên của Trung Quốc như là một nhà tiêu thụ khí gas ngày càng lớn và tầm quan
trọng mà nước này đặt ra cho việc giành được nhiều dầu lửa và khí gas trong
tương lai từ những khu vực gần với mình tới mức chấp nhận được có lẽ đã giúp
giải thích lý do vì sao Trung Quốc ước tính tiềm lực năng lượng trên Biển Đông
quá cao như vậy. Những ước lượng đó làm vững chắc thêm các tuyên bố chủ quyền
trải ra khắp trong vùng của họ. Tất nhiên, những ước đoán này còn phải được kiểm
chứng. Nhiều khu vực, đặc biệt trong những vùng biển nước sâu, chưa được thăm dò
do ở xa và đang bị tranh chấp.
Tuy
nhiên, Trung Quốc có vẻ chú tâm trong việc mở rộng hoạt động nghiên cứu năng
lượng ngoài khơi của mình. Cho tới một vài năm trước, các tập đoàn năng lượng
của Trung Quốc do nhà nước sở hữu đã nản chí vì tình trạng ganh đua và bởi
CNOOC, nhà sản xuất dầu lửa và khí gas lớn thứ ba Trung Quốc, đã có được điều
kiện kiểm soát độc quyền thực sự trong hoạt động ngoài khơi. Điều này đã được
thay đổi và giờ đây toàn bộ các công ty dầu lửa và khí gas lớn của Trung Quốc có
thể dự thầu các dự án gần bờ và ngoài khơi, cả trong lẫn ngoài nước. Kể từ đầu
năm 2007, cả CNOOC và nhà sản xuất dầu lửa lớn nhất Trung Quốc, China National
Patroleum Corporation, đã và đang hướng ra trên Biển Đông để bổ sung thêm cho
sản lượng dầu gần bờ đang ít dần. Cả hai đã và đang xây dựng những giàn khoan
dầu trong vùng biển nước sâu.
Khi
các chính phủ ở Đông nam Á và các công ty năng lượng đang làm việc cho các nước
này chen lấn sâu hơn vào vùng Biển Đông trong cuộc săn lùng thêm khí gas và dầu
lửa, họ có thể chỉ hy vọng rằng cú thọc sâu về hướng nam của Trung Quốc sẽ dẫn
tới sự hợp tác tốt hơn, mà không có biểu hiện đối đầu. Trung Quốc đã phân phát
các hợp đồng thăm dò hoặc các giấy phép sản xuất cho hầu hết các lô dầu lửa và
khí gas tại vùng nước sâu trên Biển Đông phía nam Hong Kong. Việc này chỉ bị
phản ứng không thừa nhận của Đài Loan. [8] Tuy nhiên,
những giấy phép của Trung Quốc trong tương lai có vẻ xung đột gối lên vùng lãnh
hải với các giấy phép từ các láng giềng Đông nam Á (theo Reuters, ngày
2-11-2007). Không giống như những năm 1980 hay 1990, Trung Quốc giờ đây có thể
có sức mạnh quân sự để thúc ép những yêu sách lãnh thổ của mình chống lại các
đối thủ trong khu vực, nên có lẽ sẽ làm cho họ quyết định lựa chọn cách làm đó.
Thế nhưng với cái giá nào cho uy tín quốc tế của họ, cho sự ổn định trong tâm
điểm của vùng biển Đông nam Á và cho các mối quan hệ của nước này với ASEAN? ***
Michael Richardson, một cựu Biên tập viên Á châu của tờ International Herald
Tribune, là một Thành viên Nghiên cứu Kỳ cựu của Viện Nghiên cứu Đông nam Á.
Nghiên cứu gần đây của ông tập trung vào các vấn đề an ninh biển, năng lượng và
đường biển.
Hiệu đính:
Blogger Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008
* Để
biết thêm về thỏa thuận này, mời tham khảo các bài: "Chớ phản bội trong thỏa
thuận Trường Sa", trang 169; "Thỏa thuận Trường Sa là hợp hiến", trang 171;
"Phản bội Trường Sa", trang 174; ...
**
Brunei, Indonesia, Malaysia?
***
Do khó khăn về kỹ thuật vì bài dài, nên độc giả nào muốn có bản tiếng gốc Anh,
xin bấm vô tên tác giả ở đầu bài, sẽ truy cập trực tiếp vào bài báo.
[1]
Tuyên bố chung Trung Quốc-Việt Nam ngày 25 tháng Mười, 2008
[2]
Nội dung Bản chỉ thị.
[3] Nội dung Bản tuyên bố (nếu không có, là do lỗi khách
quan-BS).
[4]
Xem: Asia’s Energy Future, East-West Center, 2007, page 126.
[5]
Xem: World Energy Outlook 2007, International Energy Agency, page 325.
[6]
Xem: US Energy Information Administration, Country Analysis Briefs, South China
Sea, March 2008, page 4 & 6.
[7]
Xem: BP Statistical Review of World Energy, June 2008, pages 6 & 23.
[8]
Mời xem nội dung (nếu không có, là do lỗi khách quan-BS).
|