William Ratliff “…tại
Việt Nam, một cuộc chiến cam go vẫn còn dai dẳng giữa thế lực đẩy mạnh
phát triển kinh tế và thế lực muốn kìm hãm nó. Không phải lúc nào cấp
lãnh đạo của đảng Cộng sản cũng đồng tình về những đề tài kinh tế …”
Về
nhiều mặt, Việt Nam hôm nay đã trở thành đứa con cưng của nhà đầu tư và
công ty đa quốc gia. Ít ra, đây là nhận định của tuần báo The Economist trong một bản báo cáo đặc biệt vào đầu năm nay.
Người ta đã trưng ra những con số ngoạn mục: Gần 1000 dự án đầu tư nước
ngoài (FDI) với giá trị 60 tỉ Mỹ kim đã được ký kết trong 10 tháng qua.
Mức tăng trưởng trung bình của VN (GDP) từ năm 1991 cho đến nay là
7.5%/năm. Tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ 70% (năm 1986) xuống 15% vào năm
2008 sau khi đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu áp dụng chương trình cải tổ.
Việt Nam đã trở thành một “con rồng nhỏ” mới của Châu Á. Tuy nhiên,
nguy cơ thất bại trong cố gắng vươn mình bay vào quỹ đạo thịnh vượng
ngày càng rõ nét. Nếu thực như vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ là một
nền kinh tế thấp kém, chuyên sản xuất hàng hoá rẻ tiền cùng một đội ngũ
công nhân với tay nghề thấp và chỉ chuyên xuất cảng những sản phẩm
thiếu giá trị gia tăng: Một tình trạng tương tự như hiện nay.
Lý do của nguy cơ này không nhất thiết là cấp lãnh đạo Cộng sản không
biết vận hành kinh tế. Trên nhiều khía cạnh họ đã chứng tỏ có khả năng.
Họ đã tích lũy một bề dày từng trải. Họ có đầy đủ số liệu (mặc dù thống
kê khá lôi thôi và không đáng tin cậy lắm). Họ thu nhập nhiều cố vấn
sành sỏi để thi hành những thay đổi hầu bảo đảm sự thành đạt của đất
nước. Thêm vào sự hiểu biết về cách thức tối ưu để đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế, cấp lãnh đạo Cộng sản cũng hưởng được sự hỗ trợ nhiệt tình của
thế giới. Hơn cả những nguồn FDI, Ngân Hàng Thế Giới (WB) đã tháo mở
khoản nợ 60 tỉ Mỹ kim để Việt Nam có điều kiện hiện đại hoá ngành tài
chánh. Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB) đã cho mượn 72 tỉ Mỹ kim để
Việt Nam cải thiện hệ thống bảo dưỡng sức khỏe.
Thật ra, tại Việt Nam, một cuộc chiến cam go vẫn còn dai dẳng giữa thế
lực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thế lực muốn kìm hãm nó. Không phải
lúc nào cấp lãnh đạo của đảng Cộng sản cũng đồng tình về những đề tài
kinh tế. Nhân tố quyết định vẫn là văn hoá và sự ưu đãi của đảng viên.
Căn nguyên của những yếu tố này là 50 năm cai trị của đảng Cộng sản,
2000 năm chịu ảnh hưởng văn hoá Nho giáo rộng ra là của Trung Hoa. Cốt
lõi của thứ văn hoá này cũng na ná như mô hình yêu thương- thù ghét.
Không thể định lượng được nó. Nhưng nó thường có triển vọng ảnh hưởng
đến những quyết định hay cách hành xử. Tác động của nó mạnh hơn cả mọi
số liệu, kiến thức, bài học và thường thức tổng cộng lại.
Những yếu tố trên từng đóng giữ vai trò quan trọng tại các nước Đông Á
và Đông Nam Á trong vài thập kỷ vừa qua. Tại hai khu vực này, chúng đã
khôi phục nền kinh tế và đã sinh sản ra những con rồng đầu tiên. Hầu
hết các quốc gia kém phát triển này đều mang nặng văn hoá Trung Hoa,
Nho giáo và đều có một cộng đồng Hoa kiều năng động trong kinh doanh.
Cội rễ của Nho giáo Việt Nam bắt nguồn từ hơn 2000 năm trước, vào thời
điểm mà đất nước này còn thần phục Trung Quốc. Theo ghi nhận của ông
Phạm Duy Nghĩa, giáo sư luật tại Hà Nội, sau khi những kẻ xâm lược đã
rút về (khoảng 933 sau CN), Nho giáo vẫn tồn tại và phát triển để trở
thành chuẩn mực chi phối xã hội trong hàng thế kỷ tiếp theo.
Mô hình xã hội này đã phát triển dưới hai hệ phái. Thứ nhất là hệ phái
gia trưởng độc đoán với sự mờ nhạt của cá nhân trước tập thể, với sự
miệt thị sáng kiến cá nhân và với cả một guồng máy để áp đặt ý muốn của
mô hình này. Mặc cho những cải tổ từ năm 1986 trở đi, truyền thống độc
đoán vẫn tồn tại sâu rộng và là công cụ chính đáng hoá nền chuyên chính
của đảng Cộng sản Việt Nam.
Truyền thống này hiện rõ nét qua hiện tượng độc tài toàn trị đặc mầu
sắc gia trưởng của đảng Cộng sản Việt Nam và qua hệ thống doanh nghiệp
nhà nước (DNNN). Chính phủ vẫn khăng khăng quan niệm rằng DNNN sẽ là
nền tảng của xã hội xã hội chủ ghĩa trong tương lai. Doanh nghiệp này
chiếm đoạt 50% tài nguyên quốc gia nhưng lại tạo ra rất ít việc làm và
tăng trưởng. Những cố gắng “cải tổ” nó đã được đón nhận không mấy nhiệt
tình. Vì vậy, cơ chế doanh nghiệp này vẫn tiếp tục là tay sai phục vụ
cho những đặc quyền đặc lợi của giới cầm quyền.
Mặt khác, văn hoá Trung Hoa cũng đã được Việt Nam hoá và đã sinh sản ra
một hệ phái thứ hai rất khác với mô hình vừa trình bày trên. Nó rất dân
dã. Trong thâm căn, mô hình Nho giáo bình dân truyền thống này thường
chuyên chở những quy tắc chống lại hệ thống “bề trên độc đoán” để người
dân đen có thể tồn tại. Một số chuẩn mực của mô hình Nho giáo bình dân
này là tôn sư trọng đạo và xem giáo dục như lộ trình đi đến thành công;
đề cao đạo đức trong cách làm việc; tôn kính cá tính cần kiệm khi sử
dụng của cải.
Từ năm 1986 trở đi, luật pháp đã được nới rộng và, một cách chính thức
hay bán chính thức, đã cho phép người dân gầy dựng những doanh nghiệp
nhỏ mang tích cách gia đình. Khu vực này thường được gọi là doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Cùng với doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nhiệp
tư nhân này đã kiến tạo 45% mức tăng tưởng và đem lại gần 100% công ăn
việc làm cho xã hội. Tuy đã được hợp thức hoá, doanh nghiệp tư nhân vẫn
còn khiêm tốn về tầm vóc và vẫn còn thiếu vốn tư bản. Khu vực này còn
cam chịu nhiều cản trở từ nhà nước: Quyền sở hữu, vốn tín dụng và bảo
đảm pháp lý.
Hai hệ phái Nho giáo này không chỉ xuất phát từ Khổng giáo, nhưng sự
tác động hỗ tương giữa hai ảnh hưởng vừa tiêu cực vừa tích cực rất rõ
nét tại các quốc gia kém phát triển tại Đông Nam Á. Hiện trạng của các
con rồng Á Châu cho thấy ảnh hưởng của phần tích cực mạnh hơn ảnh hưởng
của phần tiêu cực. Tuy nhiên tại Việt Nam, tranh chấp giữa hai thế lực
này vẫn chưa ngã ngũ.
Khi chương trình cải thiện để gia tăng phát triển kinh tế bị gạt ngang
hay chỉ được áp dụng một cách hờ hững thì phải hiểu rằng một thế lực
“không thuần túy kinh tế” đang nắm chắc vận mệnh đất nước trong tay.
Yếu tố quan trọng nhất trong mọi yếu tố vẫn là niềm tin vững chắc của
đảng Cộng sản vào những quy tắc mang tính cách truyền thống và hệ
thống. Những quy tắc này đi ngược lại với phát triển kinh tế. Chúng thể
hiện qua một nhà nước gia trưởng và độc đoán đè bẹp doanh nhân và thị
trrường tự do.
Giới lãnh đạo đảng cần cân nhắc kỹ những hậu quả của sự chọn lựa này.
Nếu giới cầm quyền cho rằng sự dung hoà giữa mô hình gia trưởng độc
đoán (hiện mang tên “xã hội chủ nghĩa”) và sáng kiến cá nhân sẽ giúp
Việt Nam tiến xa (bằng cách khai thác sân chơi kinh tế khắp nơi trên
đất nước), họ nên chứng tỏ sự quyết tâm hướng về mục tiêu đó. Nếu họ
vẫn ngoan cố lần chần như hiện nay, họ sẽ giam hãm Việt Nam ở vị thế
lạc hậu trong một thế giới tân tiến. William Ratliff Nguồn: Tạp chí kinh tế viễn đông, số tháng 11 2008 Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ
|