Đoàn Thanh Liêm
Mới đây, người viết đã có dịp trình bày về đề tài
“Xã hội Dân sự tại Nông thôn Việt nam”, nay xin được trình bày về việc
xây dựng XHDS tại thành phố.
Dân số Việt nam hiện nay vào khoảng trên 86 triệu
người, trong đó có đến 70% sống ở nông thôn, và chừng 30% sống ở thành
thị. Hiện tại Việt nam có 59 tỉnh và 5 thành phố lớn là Saigon, Hanoi,
Hải phòng, Cần Thơ và Đà nẵng. Saigon đông dân số nhất, vào khoảng 6
triệu dân, Hanoi có gần 4 triệu.
So với nông thôn, thì ở các thành phố, nhất là tại
các đô thị lớn như Saigon, Hanoi, Hải phòng, khu vực Xã hội Dân sự dễ
có điều kiện phát triển hơn. Lý do chính yếu là vì trình độ dân trí của
người dân thành phố thường bao giờ cũng cao hơn so với dân miền quê.Mức
sống kinh tế vật chất với nhiều tiện nghi thoải mái cũng cao hơn. Người
dân được thông tin dồi dào, mau chóng hơn , nhất là được tiếp cận giao
lưu dễ dàng với thế giới văn minh bên ngoài. Và tại các thành phố lớn,
thì chính quyền cũng khó mà “bắt nạt, đàn áp” người dân, như thường dễ
xảy ra ở thôn quê…
Cụ thể như là trong vụ lụt tai hại mới đây vào đầu
tháng 11/2008, thì dân Hanoi càng thấy rõ các mặt yếu kém, bất cập,
lúng túng của guồng máy nhà nước và đã không e ngại gì trong việc phê
phán chính quyền và cả đảng cộng sản. Đến nỗi mà nhân vật lãnh đạo chủ
chốt của thành phố là Bí thư Thành ủy mà cũng là Uy viên Bộ chính trị
Phạm quang Nghị đã phải lên tiếng công khai xin lỗi đồng bào về lời
phát biểu vô trách nhiệm ngay sau khi vụ lụt xảy ra. Tại Saigon, thì
hiện vào giữa tháng 11 nhiều nơi cũng bị ngập lụt thê thảm, và dư luận
dân chúng cũng như báo chí đã công khai phê phán việc làm trái khóay
của các cơ quan đặc trách về vịêc quy hoạch đô thị từ nhiều năm nay,
khiến gây ra hiệu quả trầm trọng ngày nay.
Đó là một trong những thí dụ điển hình của hiện
tượng quần chúng nhân dân đô thị đang bắt đầu sử dụng quyền làm chủ của
mình để đòi hỏi nhà nước phải chỉnh đốn lại lề lối làm việc kém cỏi,
tác trách đối với xã hội. Đây quả là một báo hiệu tích cực của việc
phát triển Xã hội Dân sự, đặc biệt từ môi trường đô thị và có khả năng
sẽ lan rộng trên địa bàn nông thôn toàn quốc.
Dưới đây, ta sẽ lần lượt phân tích chi tiết hơn về
cái tiềm năng cực kỳ to lớn của khối quần chúng đô thị trong hoàn cảnh
hiện nay tại Việt nam.
1. Đầu tiên là quá trình “Gây ý thức” (Conscientisation)
Với trình độ dân trí cao, người dân đô thị dễ tiếp
thu được nhiều thông tin chính xác và nhờ đó mà sớm có được những phản
ứng và hành động hợp lý, hợp thời rất cần thiết cho cuộc sống cá nhân
hay tập thể. Tầng lớp tinh hoa của xã hội phải đứng ra làm chất men,
chất xúc tác để khơi đông quần chúng nhân dân ý thức được cái “quyền
làm chủ cuộc sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho bản thân và gia
đình của từng người.Đây là quá trình “gây ý thức, gây men và vận động
quần chúng” ( conscientisation/fermentation mobilization) để họ đồng
thuận cùng nhau tham gia vào công cuộc phát triển xã hội dân sự để vừa
làm “đối tác”, vừa làm “đối trọng” với cơ quan Nhà nước, nhằm tạo dựng
được cái không gian xã hội lành mạnh, điều hòa và nhân ái cho tập thể
cộng đồng dân tộc.
Bài học lịch sử từ cuộc Cách mạng Độc lập của nước
Mỹ hay cuộc Cách mạng Dân quyền của nước Pháp hồi cuối thế kỷ XVIII cho
ta thấy rằng cái mầm mống đòi hỏi phải cải cách xã hội đã được chuẩn
bị, lót đường từ mấy thế hệ trước. Cụ thể là từ các nhà tư tưởng tiến
bộ như Rousseau, Montesquieu, Voltaire… ở Pháp hay của các “Vị cha lập
quốc”(Founding Fathers) của Mỹ.Các tư tưởng mới mẻ được trao đổi, thảo
luận thường xuyên giữa các thức giả trong những “salon litteraire”(trà
đàm văn học), rồi lần lần được phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp quần
chúng bình dân và kết cuộc là gây ra được một “cao trào tư tưởng tiến
bộ” của tòan thể xã hội.
Tại nước ta, thì ngay từ đầu thế kỷ XX nhà cách
mạng tiền bối Phan Châu Trinh cũng đã nêu cao khẩu hiệu: “Nâng cao Dân
trí, Chấn hưng Dân khí, Cải tiến Dân sinh” nhằm đưa quốc gia tiến lên
một xã hội văn minh tiến bộ và thoát khỏi sự đô hộ xâm chiếm của người
Pháp. Vào thế kỷ XXI này, chúng ta cũng phải đồng thời mạnh mẽ thực
hiện cả ba vế của cái khẩu hiệu nói trên, thì mới mong có thể giải
thoát cho dân tộc khỏi chế độ độc tài toàn trị hủ lậu hiện nay của đảng
cộng sản.
2. Nhóm Hành Động cụ thể (Action Groups)
Quảng đại quần chúng dù trình độ dân trí có cao đến
đâu đi nữa, thì cũng chú trọng đến hành động cụ thể, chứ không phải chỉ
là lý thuyết suông. Do vậy mà cần phải thật năng nổ sáng tạo trong việc
tổ chức được nhiều loại hình công tác cải thiện môi trường sinh hoạt
ngay trước mắt của người dân từng địa phương cơ sở, để rồi từ đó lôi
cuốn được cảm tình gắn bó của bà con trong khóm hẻm. Điển hình là những
công tác ”phát triển cộng đồng” như chỉnh trang đường hẻm, đặt cống
thoát nước, cải thiện vệ sinh công cộng, tương trợ tiếp cứu lẫn nhau
khi gặp rủi ro tai nạn v.v…Loại công việc nhỏ bé, mà cụ thể, thường
xuyên được thực hiện như thế này, thì sẽ mau chóng gây được sự “phấn
khởi nô nức” trong khối quần chúng của mỗi địa phương sở tại. Đồng thời
cũng tạo ra được tình nghĩa thân thiết xóm giềng, sự keo sơn gắn bó
trong cộng đồng. Và nhờ đó cái “nguồn vốn xã hội” (social capital) của
tập thể được tích lũy mỗi ngày mỗi dồi dào phong phú thêm mãi lên. Và
nhờ đó mà đời sống cộng đồng được an vui, phấn chấn hơn.
Vì lối sống tập trung quây quần sát cạnh bên nhau
tại các khu phố, nên việc huy động bà con thì dễ dàng mau lẹ hơn là ở
nông thôn là nơi mà dân cư thường sinh sống phân tán lẻ tẻ rời rạc.
Điều này rất quan trọng, bởi vì nó làm cho người dân bớt sợ hãi hơn
trước sự đe dọa, áp đảo của cán bộ của nhà nước độc tài chuyên chế.
Như ta đã biết, khu vực xã hội dân sự bao gồm mọi
tổ chức phi chính phủ (NGO = non-governmental organizations) và các
nhóm nhỏ (small groups) nhằm theo đuổi mọi hình thức sinh họat rất đa
dạng về từ thiện nhân đạo, về thể thao văn hóa, về du lịch giải trí, về
phát triển nghệ thuật, về tôn giáo tâm linh v.v…Đó là một vườn hoa muôn
màu muôn sắc, đem lại phẩm chất cao cho cuộc sống của mọi người (high
quality of life)
Tại nước Mỹ, thì thống kê cho biết có đến cả triệu
NGO lớn nhỏ đủ loại, và có đến 3 triệu các nhóm nhỏ. Và trong hai hình
thức tổ chức này, thì có đến trên 60% là do các tôn giáo đứng ra tổ
chức hay yểm trợ mà thường được xếp vào loại “Hoạt động xã hội dựa vào
niềm tin” (Faith-based Social Action).
Có thể nói óc sáng tạo và tính năng động rất dễ có
môi trường phát huy tại các thành phố lớn vốn quy tụ được tinh hoa của
dân tộc. Vì thế, mặc dầu bị cấm cản đủ bề do người cộng sản muốn giữ
độc quyền thao túng, thì nhân dân vẫn có thể tìm mọi cách để vượt qua
được hết mọi loại rào cản, y hệt như đã vượt được”bức tường lửa” để
tiếp cận qua internet của thế giới, để dành lại “quyền làm chủ cuộc
sống” của bản thân, gia đình và của toàn thể dân tộc mình.
3. Liên kết giữa Đại học và Tôn giáo (Academy and Churches)
Đại học vừa có chức năng đào tạo, vừa có chức năng
nghiên cứu ở cấp cao nhất. Đó là nơi tập trung của “Trí tuệ, và Nguyên
khí” của quốc gia. Trong khi đó thì Tôn giáo là “Tiêu biểu cho Điều
Thiện”, cho tấm lòng “Nhân ái bao dung”. Một bên có sự hiểu biết khoa
học, có kỹ thuật tinh xảo, có tầm nhìn khai phóng sâu xa. Một bên có sự
nhẫn nại hy sinh, có tâm hồn cao thượng, có cuộc sống thanh thoát. Kết
hợp được cả hai phía “Trí và Tâm” của Đại học và của Tôn giáo, để cùng
chăm lo cho hạnh phúc của Dân tộc, thì nhất định là phải thành công tốt
đẹp thôi.
Rất tiếc là người cộng sản ngay từ ngày đầu nắm giữ
được chính quyền năm 1945, thì họ đã có cái nhìn sai lạc, coi tôn giáo
là kẻ thù, là nha phiến làm mê hoặc quần chúng (opium). Và họ đã tìm
mọi cách để tiêu diệt, triệt hạ tôn giáo, do vậy mà gây chia rẽ phân
hóa rất ư là trầm trọng trong đại gia đình dân tộc chúng ta.Và hiện
nay, họ vẫn còn tiếp tục coi tôn giáo như là một”thế lực thù địch” làm
suy yếu guồng máy cai trị độc quyền của họ. Chính quyền Hanoi vẫn còn
dùng mọi thủ đọan, đòn phép để khống chế các tổ chức tôn giáo và lại
khích động lòng đố kỵ hận thù giữa các tôn giáo với nhau nữa. Đó là cái
thủ đoạn cố hữu “ Chia rẽ để dễ bề cai trị”, mà xưa nay người cộng sản
vẫn áp dụng.
Mặt khác, đối với giới trí thức trong khu vực hàn
lâm đại học, thì họ vẫn tìm cách khống chế, kềm kẹp rất gắt gao. Họ coi
trọng “Hồng hơn Chuyên”, tức là chỉ xử dụng loại người “ngu trung, rắp
mắt tuân theo mệnh lệnh của đảng”, mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi
đích thực của dân tộc. Vì thế, người trí thức, chuyên gia mà còn có
chút sự tự trọng, liêm sỉ, thì không thể a dua, tự biến mình thành ra
một thứ nô lệ, bán rẻ linh hồn cho chế độ độc tài cực quyền được.
Trước tình trạng bế tắc đó, giới sĩ phu trí thức và
giới lãnh đạo tinh thần phải tìm cách sát cánh, liên kết chặt chẽ với
nhau để cùng mưu cầu sự phục hưng và phát triển của đất nuớc. Cần phải
minh định trước rằng: Sự liên kết này không hề nhằm mục tiêu “đánh đổ
chính quyền cộng sản”, mà chỉ là để nâng cao vai trò của Xã hội Dân sự
trong việc làm “Đối tác và Đối trọng” đối với Nhà nuớc, khiến cho đảng
cộng sản không còn “một mình một chợ”, tự tung tự tác mãi mãi trên quê
hương đất nước Việt nam này mà thôi. Đây là vấn đề của Luơng tâm, của
Lẽ phải mà những thành phần tinh hoa, ưu tú của dân tộc không thể lẩn
tránh mãi trước tình trạng mỗi ngày một thêm bi đát, sa đọa, nguy khốn
của quê hương chúng ta được.
Nói vắn tắt lại, thì ở các thành phố, chúng ta có
đủ những sĩ phu trí thức là tinh hoa ưu tú của dân tộc, chúng ta cũng
có những nhà lãnh đạo tinh thần là tiêu biểu cho nền đạo đức lễ nghĩa
trong truyền thống nhân bản và nhân ái từ ngàn xưa do cha ông để lại.
Và đồng thời, chúng ta cũng tiếp thu và hội nhập được với trào lưu khai
phóng dân chủ và nhân quyền của thế giới văn minh hiện đại ở thế kỷ
XXI.
Với những điều kiện thuận lợi cả về nhân sự, cũng
như về thời cơ như vậy, nhất định là chúng ta có thể làm sống lại cái
truyền thống nhân ái, thuận thảo và hài hòa của dân tộc và phục hồi lại
nhân phẩm của người dân, để cùng chen vai, sát cánh với toàn thể nhân
loại văn minh tiến bộ khắp năm châu vậy.
Một lần nữa, người viết xin được phép nhắc lại là:
“Dân tộc đang trông chờ sự dấn thân nhập cuộc của các sĩ phu quân tử,
của các trí thức văn nghệ sĩ, của giới lãnh đạo tinh thần nơi các tôn
giáo”. Vấn đề còn lại đối với tất cả quý vị là phải làm sao ”đáp ứng
cho thỏa đáng đối với lòng tin tưởng và trông đợi này của đất nước“.
California, Tháng 11, năm 2008
|