Duy Hoang
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KA14Ae01.html
Các đoàn đàm phán của Việt Nam và Trung Quốc mới đây thông báo đã hoàn thành
việc phân chia đường biên giới trên bộ, dài 1.350 km, vốn có tranh cãnh từ lâu,
giữa hai nước. Việc hoàn thành đó như thể đã giải quyết xong mối bất đồng sôi
sục giữa hai quốc gia, nhưng chính nó lại đang làm cho xung đột gia tăng giữa
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS VN) với một số nhóm trong lực lượng quân
đội về cách xử lý khi giao thiệp với người láng giềng to lớn.
Cách xử lý của
chính quyền Hà Nôi trong các đàm phán biên giới với Trung Quốc đã gây ra nhiều
bức xúc cho giới sinh viên, trí thức. Nhiều người cho rằng ĐCS VN hiện đang quị
gối trước Bắc Kinh để đổi lấy sự bảo trợ về chính trị.
Việt Nam và Trung
Quốc đã có một đường biên giới tồn tại từ hàng ngàn năm nay. Cuối thế kỷ 19,
chính quyền thuộc địa của Pháp, thay mặt Việt Nam cùng với triều đình nhà Thanh,
thay mặt Trung Quốc, đã cùng thống nhất một hiệp ước phân định đường biên giới
trên bộ. Theo hiệp ước đó, đã có 333 cột mốc được dựng lên để phân định.
Đường biên giới
đó hầu như được giữ nguyên vẹn cho tới tận năm 1979. Sau cuộc chiến ngắn ngủi
nhưng đẫm máu, Trung Quốc đã rút quân đội về, nhưng vẫn chiếm giữ các điểm chiến
lược của phía Việt Nam. Khi hai nước nối lại quan hệ ngoại giao vào năm 1991,
các đường biên trên bộ và biển vẫn trong tình trạng chưa được giải quyết dứt
điểm.
Bắc Kinh đã tăng
sức ép đối với Việt Nam bằng cách tự định ra các thời hạn đàm phán và gây ra các
sự cố dọa nạt trên thực địa. Tháng Bảy năm 1997, Chủ tịch ĐCS Trung Quốc là
Giang Trạch Dân đã nói với đồng cấp Đỗ Mười của Việt Nam là hiệp định biên giới
trên bộ phải được kết thức trước năm 2000 và hiệp định đó, như đã thấy, đã được
ký vào lúc 11h00 đêm ngày 30 tháng Mười Hai năm 1999.
Lãnh đạo của chính quyền Việt Nam ban đầu đã giữ kín về
hiệp định biên giới trên bộ. Chính quyền đã bắt và tống giam nhiều người hoạt
động dân chủ trẻ tuổi khi họ lên tiếng cảnh báo cho dân chúng biết về hiệp định
biên giới trên bộ và hiệp ước về phân chia vịnh Bắc Bộ một năm sau đó. Do vội vã
trong việc ký kết hiệp định biên giới năm 1999 nên hai bên vẫn phải đàm phán
thêm để xác định rõ nhiều điểm trên đường phân định. Vì muốn giải quyết sớm, Bắc
Kinh lại một lần nữa yêu cầu đường biên phải được phân định xong ngay và không
được muộn hơn ngày 31 tháng Mười Hai năm 2008. Và như đã thấy, đường biên giới
trên bộ đã được hai bên cắm mốc phân định xong chỉ vài giờ trước khi chuông đồng
hồ báo nửa đêm cuối của năm 2008.
Người Việt Nam từ
lâu đã biết rằng chính quyền Trung Quốc đã di chuyển rất nhiều cột mốc đường
biên giới có tuổi hàng mấy trăm năm. Những cư dân tại Quảng Ninh ở phía Bắc Việt
Nam đã kể nhiều về việc các cột mốc bị chuyển một cách bí mật vào ban đêm và
đường biên ngày càng tiến gần hơn các vùng dân bên Việt Nam. Ở những vùng có ít
dân hơn bên Việt Nam cũng có nhiều ghi nhận cho thấy có một sự di dân có tính
toán từ bên Trung Quốc sang Việt Nam.
Các đàm phán về
đường biên đã gây ra nhiều bất đồng sâu sắc trong lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và
trong lực lượng quân đội. Tin rò rỉ vào tháng Mười Hai cho thấy quân đội đã phản
đối lại việc nhượng bộ cho Trung Quốc các khu vực, trong đó có điểm chiến lược
là bờ sông có tên là Bãi Túc Lâm nằm tại ngã ba Trung Quốc, Việt Nam và vịnh Bắc
Bộ.
Không lâu sau khi
đài Chân trời mới (một đài phát thanh sóng AM phủ toàn Việt Nam không được chính
quyền Việt Nam thừa nhận) đưa tin về sự kiện trên, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng đã vội vã tới tận địa phương có Bãi Túc Lâm để tỏ ra ĐCS Việt Nam và chính
phủ có sự quan tâm về vấn đề đó.
Nhiều cựu chiến
binh, nhất là những người đã chiến đấu trong cuộc chiến biên giới 1979 đã kịch
liệt phản đối sự nhượng bộ biên giới cho Trung Quốc. Trần Anh Kim, một cựu trung
tá quân đội và là người bất đồng chính kiến có tiếng đã nói lên sự thất vọng
chung của rất nhiều sỹ quan khi biết chính quyền đã nhượng nhiều phần biên giới
mà người Việt đã phải đổ máu để bảo vệ cách đây hai thập niên.[1]
Trong bối cảnh
đó, những lãnh đạo của Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ cắm mốc biên giới cũng đã thể
hiện sự bức xúc ngấm ngầm. Một số người còn thừa nhận đó là nỗi nhục cho dân tộc
và lịch sử. Liệu những người này và quân đội nói chung có còn tuân lệnh của Đảng
cộng sản trong tương lai nữa hay không vẫn là một câu hỏi để ngỏ.
Cho đến nay, cả
Hà Nội và Bắc Kinh đều chưa tiết lộ gì về các điều khoản chi tiết trong hiệp
định biên giới hay về bản đồ biên giới mới. Trong một cuộc phỏng vấn với truyền
thông nhà nước, ông thứ trưởng ngoại giao Việt Nam chịu trách nhiệm về đàm phán
biên giới đã cố tình hạ thấp sự mất mát các vị trí địa danh văn hóa quan trọng
như Ải Nam Quan và thác Bản Giốc. Ông ta phủ nhận các cáo buộc từ các blog và
các trang web hải ngoại cho rằng chính phủ đã nhượng lãnh thổ cho Trung Quốc
bằng lập luận là chính phủ đã cố gắng giữ lại được phần lớn Bãi Túc Lâm trong
khi sự thật hiển nhiên là toàn bộ vùng đất đó trong các bản đồ trước đây đều
thuộc về Việt Nam.
Sự mắc kẹt về
chủ quyền
Sự mắc kẹt của
ĐCS Việt nam hiện nay là làm sao vừa duy trì được sự khống chế của Đảng vừa
không nhượng bộ về chủ quyền. Để duy trì được sự bảo trợ của Trung Quốc về ý
thức hệ, Hà Nội luôn phải cố làm hài lòng ông chủ phương bắc, nhưng Trung Quốc
lại ít khi tỏ ra biết điều. Hiện nay vẫn còn bốn vấn đề tranh cãi lớn về lãnh
thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đó sẽ là những vấn đề sẽ tác động tới chính trị
nội bộ của Việt Nam trong những năm tới.
Thứ nhất là vịnh
Bắc Bộ, vịnh này đã được phân định chính thức bằng hiệp ước năm 2000 cho dù tập
bản đồ chính thức chưa được công bố. Những năm gần đây đã xảy ra nhiều sự cố
trong đó hải quân Trung Quốc bắn vào tàu đánh cá phía Việt Nam, nhiều vụ đã làm
nhiều người chết, cho dù những ngư dân Việt Nam đó đã chỉ hoạt động trên vùng
biển quen thuộc với họ từ nhiều đời nay. Như vậy chắc là chính quyền Việt Nam đã
nhượng vùng biển đánh cá đó cho phía Trung Quốc rồi hoặc hải quân Trung Quốc đã
xâm lấn vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam. Dù lý do nào nhưng người ta vẫn không
thấy báo chí chính thống của Việt Nam đưa tin về những vụ tấn công đó, ngoài
những tin tức được truyền đi khắp nơi từ các blog cá nhân.
Thứ hai là quần
đảo Hoàng Sa (Paracels) mà Trung Quốc đã chiếm giữ ngày 19 tháng Một năm 1974.
Chính quyền Hà Nội lúc đó vẫn tuyên bố chủ quyền quần đảo này, nhưng họ lại cố
không để cho dân chúng biết kẻ đang thực sự chiếm giữ chúng. Lý do là quần đảo
Hoàng Sa trước đó vẫn do Miền Nam Việt Nam quản lý trong thời kỳ chiến tranh và
Cộng sản Việt Nam đã âm thầm ủng hộ người đồng minh Trung Quốc xâm chiếm quần
đảo đó.
Thứ ba là quần
đảo Trường Sa (Sparatlys), đều được tuyên bố chủ quyền hoàn toàn hoặc một phần
bởi Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan và một số nước ở Đông Nam Á. Cuối năm 2007,
Trung Quốc đã tiến thêm một bước bằng việc chính thức sát nhập quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa vào lãnh thổ của họ. Trong khi đó chính quyền Hà Nội cũng công khai
phản đối động thái của Trung Quốc, nhưng họ lại cũng đàn áp các sinh viên Việt
Nam và giới blogger khi những người này biểu thị phản đối Trung Quốc.
Thứ tư là vũng
Nam Côn Sơn, đây là vùng trữ nhiều dầu và khí đốt nằm ngoài bờ biển phía Nam
Việt Nam, đúng trong khu vực đặc quyền kinh tế hợp pháp của Việt Nam. Năm ngoái
Trung Quốc đã gây áp lực làm ExxonMobil phải rút khỏi một dự án khai thác với
Việt Nam trong vùng này.
Ngay sau đó, tập
đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC đã công bố kế hoạch trị giá 29 tỷ USD
nhằm khai thác dầu khắp vùng biển đang có tranh chấp, bao gồm cả vũng Nam Côn
Sơn, cách bờ biển Việt Nam khoảng 249 Km và cách mũi phía nam của đảo Hải Nam
của Trung Quốc khoảng 1.600 Km.
Trong dịp nghỉ
Tết vừa rồi, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết của Việt Nam đã gặp các lãnh đạo cao cấp
tại Đà Nẵng – là nơi đặt tổng chỉ huy cho khu vực quân sự kiểm soát các quần đảo
đang bị tranh chấp. Triết đã nhắc nhở các sỹ quan là phải đợi lệnh từ trung ương
trước khi hành động. Động thái này như một sự phản hồi trước các vụ xâm nhập của
Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam và sự sốt ruột của giới quân đội trước phản
ứng yếu ớt của chính quyền trung ương.
Cách đây một thập
niên, chính quyền Hà Nội có thể kiểm soát được sự giao du của họ với Trung Quốc
mà không bị dân chúng phản đối. Với sự quảng bá rộng rãi của Internet và phát
triển liên tục của các blog hiện nay, khả năng kiềm chế dư luận và khống chế dân
chúng của chính quyền đang bị suy yếu mạnh mẽ. Với sự bức xúc ngày càng tăng
trong giới quân đội, sự để ý ngày càng nhiều lên của dân chúng, những ngày tháng
mà bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam có thể yên trí lén lút giao du với
Bắc Kinh đã qua rồi.
(Duy Hoàng:
lãnh đạo tại Mỹ của Việt Tân-đảng chính trị ủng hộ dân chủ chưa được thừa nhận
tại Việt Nam.)
Lược dịch bởi
D.Y.
[1] Nguyên văn " two
decades ago" " hai thập niên", có lẽ tác giả có sự nhầm lẫn vì từ 1979-2009 là 3
thập niên.(ND)
|