Thiên Ðức
III/- Tình cảm gia đình:
1)- Nguyễn Ái Quốc: Ðể
tìm hiểu tình cảm trung thực của Nguyễn Ái Quốc đối với gia đình như
thế nào, không gì hơn là đọc lại những dòng sử liệu của tác giả trong
nước.
Trong tác phẩm “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” (Sự hình thành một chọn lựa) của Lữ Phương có đoạn:
Chúng
ta đã biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được
vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm
lợi cho đồng bào mình. Ðiều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức
thư đó, Nguyễn Tất Thành đã theo tàu trở về Việt Nam qua hành trình
Marseille-Sài Gòn-Hải Phòng-Sài Gòn-Marseille-Le Havre& Tại Sài
Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc
Nguyễn Tất Ðạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận
động xin vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền
Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ.
Sự
quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với
cách thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói
trên , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào
Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho
Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Ðông Dương) cho cha, vì
cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được .
Suốt
thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn
làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có
ý xin chính quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản
khai của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài Gòn ngày 21-9-1922 có nói đến
việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu
Latouche-Tréville (ông nói đã quên tên) như sau:
“Anh
đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông
nghiệp dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần
đầu tiên anh sang Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về việc
ông vừa mới bị bãi chức. Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do-huu-Chan
(?)đang công tác tại Marseille, với tư cách là người giúp việc nhà cho
ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó” .
Ngày
15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm xứ Huế báo rằng trong ba cái
mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy
mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi
tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm
sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau:
“Ôi!
Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận
được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!
Thôi
thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha
tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?)
để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh
nhai” (1)
Ðọc: Thư của Nguyễn Ái Quốc gởi Tăng Tuyết Minh
Nguyễn
Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không
có kết quả. Khi ở Thái Lan, ông đã viết một lá thư bằng chữ Hán với nội
dung như sau:
Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thụy.
Dịch
nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương
khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư
để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc.
Người anh vụng về, Thụy”.
Bản dịch của N.H.Thành:
Cùng em xa cách, Ðã hơn một năm, Thương nhớ tình thâm, Không nói cũng rõ. Cánh hồng thuận gió, Vắn tắt vài dòng, Ðể em an lòng, Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc, Nhạc mẫu vạn phúc. Anh ngu vụng: Thụy
Bức
thư này bị mật thám Ðông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện
được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d'Outre-Mer
_Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence.
Ðầu tháng
5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại viết một lá thư nữa từ Thượng Hải hẹn
Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để gặp nhau. Tiếc thay lá thư này cũng
không đến được tay Tăng Tuyết Minh do cô đã rời địa chỉ ghi trong thư
là trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu và người ta đã
xem trộm rồi đốt đi. Mãi nửa năm sau Tăng Tuyết Minh mới biết chuyện.
(2)
Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên
lạc với thân phụ của ông trong những năm 1928 và 1929 qua sự môi giới
của người vợ góa của Lương Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom Penh và
làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người Việt quốc gia. (3)
Có
thể tóm tắt, ở bất cứ hoàn cảnh nào, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn thể hiện
là một người nặng tình cảm gia đình với cha, với anh trai và cả người
vợ mới cưới của mình.
2)- Hồ Chí Minh Sau cách mạng tháng 8/1945 Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước đã đối xử với người thân như thế nào qua những tài liệu sau:
Theo nhật ký Hoàng Tùng Hồi
đó còn chuyện này nữa. Chuyện này chắc ông Vũ Kỳ biết hơn tôi. Khoảng
tháng 10 năm 1945, khi bà Bạch Liên, chị ruột của Bác, biết em mình trở
về, đã ra Hà Nội muốn gặp. Gặp Bác, bà nắm tai Bác kéo lên và kêu: Ðúng
nó đây rồi! Bà nhận ra vì Bác có cái sẹo nhỏ ở tai, khi còn bé ở nhà
câu cá, giựt câu bị lỡi câu mắc vào tai. Ðể bà ở Bắc bộ phủ thì không
tiện, Bác nói tôi đưa bà về nhà tôi ở. Bà ăn trưa, ngủ đêm ở nhà tôi,
còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi. Sau chuyến này tôi không biết
bà có ra thăm Bác lần nào nữa không. Lúc đó tôi ở 23 Hàng Nón. Bà ra có
mang theo biếu Bác hai chục trứng gà. Bác bảo đem luôn về nhà tôi. (4)
Ngày
chủ nhật (27-10-1946), Nguyễn Thị Thanh đã ra tận Hà Nội để gặp gỡ,
thăm hỏi em trai mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh.Một tuần lễ sau, khi
Nguyễn Thị Thanh trở về Kim Liên, thì ngày chủ nhật (03-11-1946) Nguyễn
Sinh Khiêm lại ra Hà Nội gặp em trai mình....
Bác nói: “Anh mới
ra, anh khỏe không? Quý hóa quá, chị Thanh về trong đó có khỏe không
anh? Hôm chị ra đây có hai cháu này cùng đến với em, nhưng em quá bận
không tiếp được nhiều. Em có mời chị và hai cháu ở chơi đến chiều,
nhưng chị về”.
Bác Khiêm trả lời: “Chị Thanh về có nói chuyện
lại bảo chú gầy lắm, công việc bận rộn suốt ngày, bà con ai cũng đến
hỏi thăm và lấy làm sung sướng”.
Bác Khiêm nói: “Hôm nay ông
cháu đến thăm chú, tôi mang biếu chú ít quả cam Xã Ðoài”. Bác Khiêm bảo
anh Thọ xách gói cam để lên bàn.
Nhân đang vui vẻ, bác Khiêm có
hỏi Bác Hồ: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra
sao?” Bác Hồ thong thả trả lời: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ
đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi”. Bác cười vui
vẻ nói: “Mình không phải là người tu hành nhưng vì việc nước phải quên
việc nhà”.
Bác Khiêm biết ý không hỏi thêm nữa và nói tiếp: “Chú
có ý định lúc nào về thăm quê?”. Bác Hồ thong thả trả lời: “Về đến đây
cũng là về đến nhà rồi, tình hình là công việc thế này chưa cho phép
nghĩ tới, chắc việc đó còn lâu”. (5)
Mãi 11 năm sau, cũng
là ngày chủ nhật (16-5-1957) ông Hồ mới trở về thăm quê lần đầu tiên.
Tại sao lại lạt lẽo và xa lạ với quê hương như vậy?
Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm "Ma đầu Hồ Chí Minh" cho biết: Hồ
Chí Minh “lạnh lùng tàn nhẫn” khi được báo tin đồng bào miền Nam đã an
táng thân phụ của ông ta năm xưa (tr.12) . Ðến việc viện cớ “vì công
việc quốc gia quá bận rộn, tôi không thể về để nhìn mặt anh (Nguyễn
Sinh Khiêm) lần cuối” rồi so sánh với việc Hồ sốt sắng đến thăm vợ bác
sĩ Tôn Thất Tùng, khi nghe tin bà này đẻ và kết luận rằng “Ðó! Không có
thì giờ về đưa ma anh ruột, mà lại có thì giờ đi thăm gái đẻ”. (6)
Qua
những nguồn sử liệu trên cho thấy một điều không ổn không thể không nói
ra: Tại sao sau mấy chục năm xa cách, anh chị là Nguyễn Sinh Khiêm và
Nguyễn thị Thanh đã cất công đường xa khó khăn đến thăm Hồ Chí Minh, mà
Hồ Chí Minh lại không mời ở lại ăn một bữa cơm để hàn huyên chuyện gia
đình, còn tệ bạc đến nỗi một gói quà quê hương của chị nghèo khổ đem từ
quê nhà đến biếu, Hồ Chí Minh cũng từ chối khéo qua hình thức bảo Hoàng
Tùng lấy đi luôn, ngay trước mặt chị ruột của mình. Tại sao?
Sau
đây tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên. Khi Bác đi
Liễu Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà chị Bác (bà Bạch Liên) qua đời. Lúc
đó Bác cùng Bộ Chính trị đóng tại xã Kim Quan, huyện Yên sơn, tỉnh
Tuyên Quang. Nhận được điện báo từ khu Bốn đánh ra, tôi báo cáo anh
Trường Chinh, anh Trường Chinh ngậm ngùi nhưng không nói phải làm gì.
Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi tôi: “Thế các chú có nhân danh Bác
điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình và địa phương là Bác bận việc
không về được không? Tôi trả lời: “Thưa Bác, không ạ”. Bác nói: “Các
chú ngốc quá”. (7)
Tại sao nghe tin chị chết mà lại không
có một phản ứng tình cảm yêu thương nào nhỉ? Cũng không có một cữ chỉ
sốt sắng nào để đi thắp một nén nhang cho người chị dù là muộn màng?
Trái lại, lại trách nhân viên sao không nói láo giùm cho ông Hồ.
Trong
suốt cuộc đời Hồ Chí Minh lúc làm chủ tịch nước, không hề tổ chức một
buổi sinh hoạt họp mặt gia đình hay gia tộc dù là trong ngày tết hay
ngày kỵ giỗ của cha mẹ, tại sao?
Nghĩa tử là nghĩa tận, anh ruột
Nguyễn Sinh Sắc trong suốt thời gian đau ốm, và chết cũng không được Hồ
Chí Minh thăm hỏi hay thắp nén nhang đưa tiễn. Tại sao?
Trong khi lại sốt sắng viết thư an ủi với người bạn khi nghe tin người con chết, như sau: Nhớ
năm 1947, khi nghe người con trai của bác sĩ Vũ Ðình Tụng hy sinh trong
chiến đấu. Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sĩ Vũ Ðình Tụng với những
lời chia buồn thống thiết: “ Tôi được báo cáo rằng con ngài đã oanh
liệt hy sinh cho tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng
không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên
là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì như tôi đứt một đoạn ruột” (8)
Ở
đây có một nghi vấn đặt ra, tại sao Hồ Chí Minh cố tình xa lạ và tách
biệt hẳn những người quen thân của Nguyễn Ái Quốc như gia đình, dòng
họ, bạn bè đồng hương cùng lứa tuổi , và cả người vợ Tăng Tuyết Minh?
Chỉ
có thể trả lời rằng Hồ Chí Minh không mang dòng máu của Nguyễn Ái Quốc,
nên không thể nào có những cảm xúc thân tình đối với những người kể
trên được. Hồ Chí Minh rất sợ bị lật tẩy vai trò giả dối của mình khi
phải đối diện với họ.
Hồ Chí Minh có thể được huấn luyện để đóng
vai diễn Nguyễn Ái Quốc thành công ở giai đoạn trưởng thành, thế nhưng
Hồ Chí Minh không thể nào biết được quá khứ tuổi thơ của cậu bé “Sinh
Coong” giả dụ như là những kỷ niệm “đái dầm” hay tắm “truồng” với bạn
bè đồng trang lứa, những lúc “hái rau mò ốc” của những chuỗi ngày hai
anh em theo mẹ cùng nhau tha hương cầu thực. Làm sao biết những ký ức
của tháng ngày bụng đói nằm đếm sao trời ở làng Chùa, làng Sen để mơ
ước tương lai có một bữa cơm “không độn rau khoai”.
Hồ Chí Minh
cũng không thể nào biết những kỷ niệm “buồng the” hay “trăng thề hứa
hẹn” thì làm sao dám tìm gặp lại Tăng Tuyết Minh mà không bị phát hiện
giả mạo.
Vì thế, sau khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước cho
đến ngày chết không hề có một động thái nào tìm lại người vợ Tăng Tuyết
Minh cả. Cho dù Hồ Chí Minh đã có nhiều dịp đến Trung Quốc trong thời
gian làm chủ tịch cũng như lúc cuối đời.
Trong Tâm tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh tác giả Bùi Tín ghi lại:
Có
nhà nghiên cứu nói đến trái tim thép lạnh tanh của ông khi bà vợ cũ có
hôn thú Tăng Tuyết Minh dò hỏi về ông suốt từ 1945 đến 1964, ông vẫn
làm ngơ, cho đến khi đảng CS Trung quốc khuyên bà nên quên chuyện này
đi, và bà vẫn ở vậy cho đến chết vào tháng 11 năm 1991, thọ 86 tuổi.
Cũng có người nói thái độ không bình thường của ông đối với người anh
cả Nguyễn Tất Khiêm và với bà Thanh chị ruột ông, cũng như với làng quê
Kim Liên, khi ông về Hà Nội từ năm 1945 mà đến tận năm 1957 mới về thăm
quê lần đầu! (9)
IV/- Tâm lý chân thật của con người cuối đời:
Thông
thường khi một người già về cuối cuộc đời có khuynh hướng sống thật với
nội tâm cội nguồn của mình như gia đình, vợ con, ông bà, tổ tiên, quê
hương và tổ quốc. Vậy cuối cuộc đời của Hồ Chí Minh như thế nào?
Những tháng cuối cùng của năm 1969, túc trực bên giường bệnh của ông Hồ là đoàn bác sĩ Trung Quốc, cùng bác sĩ Việt Nam.
Theo
sách của Hoàng Tranh, một buổi chiều cuối tháng Tám, khi tỉnh lại, Hồ
Chí Minh nói với các bác sĩ Trung Quốc: “Mong nghe ai hát một bài ca
Trung Quốc.” Một y tá của bệnh viện Bắc Kinh hát, Hồ Chủ tịch nghe
xong, mỉm cười, và “đấy là nụ cười chót” của ông trước khi hôn mê mải
cho đến lúc qua đời. (10)
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh, a life tác
giả William J. Duiker đã kể về đời tư Hồ Chí Minh với một loạt người
tình và vợ Nguyễn Thị Minh Khai , Tăng Tuyết Minh... và cả chuyện Hồ
Chí Minh vào lúc cuối cuộc đời đã nhờ một cán bộ cao cấp Trung Cộng
giới thiệu cho một cô gái trẻ để dưỡng già (11).
Tại sao Hồ
Chí Minh một người Việt Nam (?) cuối cuộc đời lại thèm nghe nhạc Tàu,
được sống với vợ Tàu, trong khi không hề nhắc đến Tăng Tuyết Minh người
vợ Tàu đã cưới hỏi đầy đủ một lần nào?
Tâm lý này còn thể hiện
qua bản di chúc viết tay. Hồ Chí Minh là một người viết sách báo lưu
loát, nhiều năm kinh nghiệm, thế mà cuối cuộc đời không thể viết một
bản di chúc hoàn chỉnh.
Hồ Chí Minh từng tự hào trong tác phẩm Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh: “Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghỉ tới tổ quốc và suốt đem mơ đến tổ quốc” (12).
Người
xưa theo quan niệm duy tâm, cho rằng “Sinh ký tử quy” con người sinh ra
chỉ là ký gởi mà thôi, khi chết luôn luôn trở về cội nguồn . Hồ Chí
Minh cũng là con người duy tâm, tin rằng con người có linh hồn, khi
chết, ao ước được ghi rõ ràng trên di chúc là đi thăm cụ Mác, cụ Lê.
Sao
Hồ Chí Minh không mong muốn về với tổ tiên vua Hùng dựng nước mà đã
nhiều lần ông từng kiêu hãnh so sánh công lao gìn giữ đất nước.
Sao đành quên đi người mẹ, từng cực khổ đùm bọc ông từ quê nhà vào Huế ăn học để rồi chết chôn thây ở xứ người.
Sao
nỡ quên người cha chết tha phương ở vùng đất Cao Lãnh hoang lạnh, mà
Nguyễn Ái Quốc đã từng nhọc công thăm hỏi từ vùng rừng núi Xiêm La, thế
nhưng khi trở thành Hồ Chí Minh chủ tịch nước lại hững hờ lạnh lùng khi
nghe tin đồng bào miền Nam đã cưu mang đùm bọc xây dựng bảo trì an táng
cha ruột của mình.
Sao không mong về gặp lại người anh, để tỏ
một lời tạ tội vì lở quên thăm viếng lúc đau ốm cũng như quên thắp một
nén nhang đưa tiễn?..
Sao đành quay lưng với người chị ruột
nghèo khổ đã cưu mang gói quà nghĩa tình đường xa thăm viếng? Phải
chăng Hồ Chí Minh không mua nổi một bó bông để tiễn đưa người chị một
chặng đường cuối?
Ðến đây có thể tổng lược lại những nét đặc trưng hai nhân vật trên như sau:
Nguyễn
Ái Quốc, với trình độ tiểu học, vốn chữ hán rất tầm thường, chưa hề thể
hiện tài năng chữ Hoa qua văn chương, thi ca hay thư pháp, mang bịnh
lao kinh niên ở thời kỳ ho ra máu. Là một người nặng tình cảm gia đình
đã nhiều lần liên lạc với anh trai, giúp đỡ tiền bạc và hỏi thăm cha dù
đang ở hoàn cảnh khó khăn chiến tranh xa cách, phải nhờ người trung
gian chuyển nhắn giùm. Ðã có vợ Tăng Tuyết Minh, yêu thương từng diễn
tả qua bút tích để lại.
Trái lại Hồ Chí Minh, mạnh khỏe không có
dấu hiệu tật bệnh gì cho đến tuổi già 79 tuổi, chết vì bịnh tim. Hút
thuốc nặng, ở tù cực khổ, kháng chiến ở rừng sâu nước độc cũng không hề
nhiễm bịnh lao. Giỏi tiếng Hoa có thể viết sách, thơ ca và có khả ngăn
trổ tài thư pháp. Hoàn toàn không nhớ hay không hề nhắc đến người vợ
Tăng Tuyết Minh cho dù đã từng qua Trung Quốc công du hay chữa bịnh
thời gian dài. Ðối với với gia đình xem như là người xa lạ và tuyệt
tình. Thậm chí một hành vi “nghĩa tử nghĩa tận” đối với cái chết của
anh và chị ruột, Hồ Chí Minh cũng không làm. Trong suốt thời gian làm
chủ tịch, Hồ Chí Minh không bao giờ tổ chức được một buổi ăn sum họp
gia đình hay kỵ giỗ cha mẹ, ông bà tổ tiên. Cuối cuộc đời chỉ mong có
vợ tàu săn sóc và nghe nhạc Tàu. Lúc chết mong về tổ quốc Mác chứ không
phải tổ tiên , ông bà xứ Nghệ.
Qua toàn bộ phần trình bày trên
có thể kết luận rằng: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không thể là một
người. Vậy Hồ Chí Minh là ai? là người Hoa? Là Hồ Tập Chương? Hay ai đó
sẽ còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi, cho đến khi nào Liên Xô chính
thức bạch hóa hồ sơ Cọng Sản Ðệ Tam Quốc tế hay là đảng csvn chấp nhận
công khai, chính thức làm một cuộc thử nghiệm DNA giữa Hồ Chí Minh với
gia tộc họ Hồ, cùng với gia tộc họ Hồ Tập Chương. Mọi sự thật lịch sử
sẽ được sáng tỏ.
Phần kết: Vụ án buôn vua cần lý giải
Nếu
Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc sẽ nảy sinh là một câu hỏi: Ai
là người chủ mưu trong vụ án buôn vua này? nhằm mục đích gì?
Có 3 giả thuyết được hình thành để thỏa mãn câu hỏi này:
* Giả thuyết 1:
Tác giả vụ buôn vua này là cọng sản Trung Quốc. Giả thuyết này khó đứng
vững bởi lý do vào thời điểm 1931 - 1933 Nguyễn Ái Quốc ở tù chưa chết,
Trung Quốc không thể nào có thời gian đào tạo huấn luyện một người khả
dĩ có thể thay thế. Hơn nữa vào thời điểm này cọng sản Trung Quốc cũng
còn gặp nhiều khó khăn trong công cuộc chiến đấu, chưa biết tương lai
thành quả chính trị ra sao, thì khó có thể đầu tư công sức và tiền của
để làm một công việc buôn vua lâu dài được. Ngoài ra còn một yếu tố
nữa, sự giả mạo khó mà qua mặt được tình báo Liên Xô.
* Giả thuyết 2:
Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính là thủ phạm lại càng không đứng vững bởi
lý do trong bối cảnh lịch sử đảng csvn ở giai đoạn thanh trừng nội bộ,
Nguyễn Ái Quốc bị tố giác chịu trách nhiệm về việc nhiều thanh niên bị
bắt ở Hồng Kông. Cả ba tổng bí thư đầu tiên của đảng cọng sản Việt Nam
là Trần Phú, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đều muốn loại trừ Hồ Chí Minh
qua những cáo giác và buộc tội rất nặng nề. Do vậy đảng csvn không cần
thiết và không có nhu cầu để đào tạo một Hồ Chí Minh giả thay thế
Nguyễn Ái Quốc.
* Giả thuyết 3: Còn lại một người có khả năng thực hiện việc buôn vua nói trên đó là: Cộng Sản Liên Xô ( hay Cọng Sản Ðệ Tam quốc tế).
Trở lại lịch sử để biết rõ vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ở thập niên 30s ra sao?
Sau
Ðại Hội 5 QTCS (1924), Nguyễn Ái Quốc còn tham gia vào Ðại Hội 3 Công
Ðoàn Quốc Tế Ðỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi là
Profintern, thành lập năm 1921). (13)
Thời gian này uy tín
và ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc lên cao, sau đó vì một số lý do nào đó
Hồ đã không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp.
Dấu
hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ
trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt
đầu chuẩn bị quay lại châu Á. (14).
Ðiều quan trọng mà ta nên
lưu ý là Ðại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn còn lênh
đênh trên biển. Có thể ông đã không biết đến những tin tức chi tiết về
kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng
chứng có được, dường như ông đã đi châu Á với hành trang không có gì
ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1 mình. (15)
Tại Ðại Hội Toàn
Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công bố vào ngày 3
tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội
bộ của ÐCS Liên Xô, ông còn tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng
cộng sản nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ. (16)
Vì
cuối tháng 2 1930 ông đã viết thư cho đại diện QTCS để tìm hiểu rõ ràng
hơn nhiệm vụ của mình: “Hiện nay tôi không biết được chính xác vị thế
của mình là gì... tôi là đảng viên của ÐCS Pháp hay ÐCS Việt Nam? Ông
còn hỏi: “Nhiệm vụ mà QTCS đã giao cho tôi đã bị hủy bỏ rồi chăng? Nếu
không thì tôi có phải là nhân viên của Phân Bộ Viễn Ðông hay không?”
Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định về việc này. (17)
Theo
quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính
sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự mất đoàn kết trong đảng. (18)
Hội Nghị ÐCS
Ðông Dương từ ngày 27-31 tháng 3 tại Macao đã bầu ra một Ủy Ban Trung
Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ÐCS Ðông Dương trong thời gian
Lê Hồng Phong vắng mặt... Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ 13 như là một
thành viên dự bị
Ðến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập trong bức thư
viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp đã kết tội phản bội của Hồ Chí
Minh những lý do như sau:
(a) Quốc đã biết rằng Lâm Ðức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ông ta; (b) Quốc đã phạm sai lầm khi đòi hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội ngoại và ông bà cố... (c)
trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm
của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được; (d) những bức ảnh do Quốc và Lâm đòi hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh sát; (e)
dần dần khi đường lối của đảng đã trở nên rõ ràng hơn đối với đảng viên
và quần chúng, họ đã phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Ðồng Chí Quốc
theo đuổi. Tổng bí thư của ÐCS Xiêm, từng là người học trò thuần thành
của Quốc, là một trong những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không
phải là một người cộng sản!!! (19)
Một nguồn tin được biết nhiều
năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc Ủy Ban Trung Ương Sô viết
là Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đã bị điều tra bởi bộ ba Dmitry
Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin này, Mauilsky đã
giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn Hồ bị xử tử hình.
Vasilieva được cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của
ông về những biện pháp an ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm].
Vào
năm 1935 có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng
hơn là tử hình, nếu ông tin rằng Hồ đã có một phần lỗi trong những bắt
bớ vào năm 1931. Nhưng vì không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất
có thể vẫn còn được giấu kín trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể
biết được những tố giác của Hà Huy Tập đã được xử lý nghiêm trọng đến
mức độ nào. (20)
Trong giai đoạn giao thời giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã xuất hiện hai nghịch lý như sau: -
Nguyễn Ái Quốc là bị bịnh lao tái phát lần thứ tư ho ra máu, có thể nào
được quan tâm chữa trị đầy đủ để sống còn qua thời kỳ bị theo dõi giám
sát như là một tội đồ bội phản, ở Liên Xô hay không? - Nguyễn Ái
Quốc bị cáo giác phản bội bởi chính những tổng bí thư đảng csvn (Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập), người chịu trách nhiệm về vụ bắt bớ
thanh niên năm 1931. Cũng là người không hoàn thành nhiệm vụ quốc tế
cọng sản. Tại sao không chịu hình phạt nào như khai trừ, kỷ luật hay hạ
tầng công tác, an trí mà trái lại còn được nuôi dưỡng chữa bịnh, cho đi
học đại học (một hình thức tái huấn luyện) để trở lại lãnh đạo đảng
csvn, được xóa trắng tội lỗi năm xưa? Hoàn toàn đi ngược lại truyền
thống “Thà giết lầm hơn bỏ sót” của cộng sản.
Phải chăng nghi
vấn Nguyễn Ái Quốc trong thời gian thất sủng này phải nhận lãnh cuộc
sống trong tăm tối, khó khăn cùng với căn bịnh lao kinh niên cho đến
chết ở một vùng đất hẻo lánh nào đó là sự thật?
Vào thời điểm
này QTCS rất cần một cán bộ đủ tin cậy để thực hiện tham vọng thống
nhất tất cả các đảng thành một đảng Cọng Sản Ðông Dương, biến Liên Bang
Ðông Dương trực thuộc Liên Bang Xô Viết. (Tham vọng Liên Bang Ðông
Dương Cọng Sản này được Lê Duẩn tiếp nối thực hiện bằng cách đem quân
xâm chiếm Campuchia vào cuối thập niên 70s). Nguyễn Ái Quốc đã từng
thất bại trong nhiệm vụ này trước năm 1930, thế nhưng thực tế vai trò
của họ Hồ vẫn cần thiết để tập hợp lại các đảng phái khác nhau. Thế
nhưng tình hình sức khỏe của Hồ Chí Minh không thể nào tiếp tục công
cuộc chiến đấu gian khổ và lâu dài này được. Vì thế QTCS đã sử dụng kế
“Kim Thiền Thoát Xác” như giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã trình bày trong tác
phản “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo”.
Như vậy, Liên Xô thực hiện
kịch bản “buôn vua” nhằm thôn tính và thống nhất Liên Bang Ðông Dương
bằng mọi giá, trên căn bản quyền lợi của Liên Xô chứ không phải là
quyền lợi của Việt Nam.
Chẳng may, kẻ buôn vua “Liên Xô” đã chết
tức tưởi vào thập niên 80s kéo theo sự phá sản của dự án Liên Bang Ðông
Dương. Phải chăng nhân cơ hội này, tình báo Trung Quốc đã “chôm?” được
bí mật hồ sơ buôn vua Hồ Chí Minh của Liên Xô để từ đó làm con bài tẩy
khống chế đảng Cọng Sản Việt Nam?
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là đảng csvn có biết vụ án buôn vua này hay không? Và biết từ thời gian nào?
Câu
trả lời: Biết được ở thời gian nào rất khó khẳng định. Nhưng với khả
năng tình báo của csvn, cho thấy không thể không biết mà biết rất rõ.
Thế nhưng vì nhiều lý do nhạy cảm, đảng csvn phải câm miệng, ngậm bồ
hòn làm ngọt, cam phận làm kẻ đồng lõa qua động thái tiếp tục thần
thánh hóa Hồ Chí Minh. Vì nếu câu chuyện được tiết lộ sẽ làm sụp đổ tất
cả từ thần tượng, chế độ đến sự nghiệp chính trị của đảng csvn cũng
tiêu tan, kéo theo nhiều tình huống bi thảm ngoài dự kiến của người
trong cuộc.
Ðây là một trong những lý do để đảng csvn trở nên hèn hạ, cam tâm làm nô lệ cho Trung Quốc qua hành động bán đất cắt biển.
Ngày
22-12, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh Lạng Sơn
đã tổ chức lễ cắm cột mốc số 1116, một trong những cột mốc cuối cùng
trên tuyến biên giới đất liền giữa hai nước Việt - Trung. (22)
Thời gian tới sẽ hoàn tất việc phân định ranh giới lãnh hải. Hoàng, Trường Sa phải biến mất trên bản đồ Việt Nam (?).
Kỷ
niệm 1000 năm Hoàng Thành Thăng Long là một dấu mốc vinh quang cho một
quá trình dựng nước và giữ nước. Phải chăng đây cũng là dấu mốc đầu
tiên của chuỗi ngày tủi nhục của lịch sử Việt Nam mất đất, mất biển do
hệ quả của vụ án buôn vua này?
Cho dù bào chữa bằng lý do nào chăng nữa, trách nhiệm không ai khác ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ghi chú: (1) “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” (Sự hình thành một chọn lựa) của Lữ Phương. (2) Wikipedia (3) The missing years Tr.115. (4) Nhật ký Hoàng Tùng (5) Trần Minh Siêu Nhà xuất bản Nghệ An - năm 2003 (6) Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm Ma đầu Hồ Chí Minh. Tr. 16 (7) Nhật ký Hoàng Tùng (8) Phùng Thế Tài và Bác Hồ, những Kỷ niệm không quên Tr. 179 (9) http://danchimviet.com (10) BBC (11) Hồ chi Minh nhận định tổng hợp - Minh Võ tr. 619 (12) Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh” tr.53. (13)(14)(15),(16),(17),(18),(19),(20): Missing years, tr.66, tr.71, tr.108, tr.112, tr.134, tr.168, tr.171, tr.172) (21) Ðàn Chim Việt (22) Báo Hà Nội Mới
Nguồn: Ðối Thoại
|