Đặng Vũ Chấn
Người Việt
Nam vẫn nổi tiếng là thông minh, hiếu học, cần cù. Với những đặc tính
như thế, sao dân ta trên đất nước của mình vần nghèo mạt, chậm lụt theo
sau thế giới? Một trong nhiều lý do quan trọng đang kềm hãm dân tộc ta
trong vũng lầy lạc hậu là nền giáo dục của ta. Trong bài bình luận ngắn
ngủi này, chúng tôi chỉ xin giới hạn vào một khía cạnh cơ bản của giáo
dục, đó là tinh thần học.
Văn
hóa nước ta đề cao việc học hành. Văn chương truyền đời thi vị hóa hình
ảnh của những anh học trò dùi mài kinh sử, vác lều chõng lên kinh đô dự
thi. Kết quả và biểu hiệu của sự thành đạt là đậu bằng Trạng Nguyên, để
được làm quan to hay Phò Mã, rồi Vinh Quy Bái Tổ cho bản thân và gia
đình nở mày nở mặt với xóm làng. Trong kho tàng văn hoá của dân tộc ta
ít thấy nói đến những người đỗ đạt sẽ làm gì sau đó bằng những kiến
thức học được, để làm sao cho đất nước và xã hội khá hơn. Cho nên tuy
văn hóa nước ta đề cao việc học hành, nhưng do ảnh hưởng của lối học từ
chương đề cao việc học với mục đích đỗ đạt để làm quan, hưởng bổng lộc,
cho bõ thuở hàn vi dùi mài kinh sử. Sự đỗ đạt cũng là cách đền đáp công
ơn dưỡng dục của cha mẹ. Ấn tượng văn hóa này vừa thể hiện, vừa duy trì
nuôi dưỡng một tinh thần học với mục đích chính, và gần như tối hậu, là
tốt nghiệp với một mảnh bằng như ý. Cho nên các bậc sĩ phu trí thức của
ta sau khi đỗ đạt tốt nghiệp thường coi như mình đã xong, có quyền
hưởng nhàn, không cần tiếp tục học để trau dồi thêm kiến thức tiên tiến
nữa. Ở Việt Nam ngày nay bằng cấp còn trở thành lá bùa cho nhiều cán bộ
nhà nước có đủ tiêu chuẩn để ngồi tại chức vụ thủ trưởng cơ quan, hay
các chức vụ béo bở khác.
Trong khi đó ở các xứ tiến bộ như Hoa
Kỳ, việc tốt nghiệp với mảnh bằng không được coi là Điểm Đến sau cùng,
mà chỉ mới là Điểm khởi đầu của giai đoạn mới làm việc thực sự. Các lễ
ra trường tốt nghiệp được gọi là Commencement Exercise có nghĩa là buổi
thao dợt mở đầu. Mảnh bằng chỉ có giá trị chứng minh rằng, người cầm nó
đã thu thập được một kiến thức và khả năng tối thiểu nào đó để có thể
hành nghề với trách nhiệm chuyên môn tương xứng. Áp dụng kiến thức và
khả năng vào thực tế làm việc ra sao mới là yếu tố quyết định chính
trong việc ấn định bổng lộc, thăng tiến và ổn định nghề nghiệp cá nhân.
Trong nhiều ngành học, các văn bằng hành nghề chỉ có giá trị trong một
thời kỳ nhất định mấy năm, và được tái cấp sau khi người cầm nó phải
chứng minh mình luôn cập nhật kiến thức và tay nghề qua một số giờ tối
thiểu học thêm hoặc qua một kỳ thi khảo sát lại.
Chính vì tinh
thần học để biết cách làm việc sao cho chính mình và công việc được
thăng tiến, mà các chuyên gia trí thức ở các nước tiến bộ đại đa số rất
nghiêm túc trong vấn đề thi cử. Vì họ ý thức rõ rằng thi cử là để đo
lường thử thách khả năng thật của chính mình, chuẩn bị cho tương lai
thực tế. Trong khi đó, tinh thần học của dân ta, như đã trình bày ở
trên, dễ đưa đến cái nhìn rằng thi cử là hàng rào trước giải thưởng
cuối cùng là mảnh bằng tốt nghiệp. Và khi đã xem mảnh bằng là cứu cánh,
thi cử là rào cản, thì người ta sẵn sàng tìm mọi cách để vượt qua rào
cản, tìm mọi ngã tắt để đạt mục đích. Môi trường xã hội càng sa đọa đầy
dẫy tham nhũng, thì càng có cơ hội để đi ngã tắt để lấy mảnh bằng. Do
đó, chẳng có gì là ngạc nhiên khi ngày nay ở Việt Nam, gian lận thi cử,
dùng phao, thuê người thi giùm, mua bằng v.v... đang trở thành phong
trào gần tới mức độ nạn dịch từ cấp lớn tới cấp bé... Việc này đưa đến
sự nghịch lý mỉa mai: người ta càng coi trọng mảnh bằng để đạt được nó
bằng mọi cách, thì mảnh bằng càng trở nên vô giá trị không chứng minh
được thực học.
Cho nên, một thách đố lớn cho những nhà giáo dục
và người cầm quyền hiện nay là làm sao cải tạo tư duy và quan niệm học
hành thi cử của dân ta, để canh tân nền giáo dục nhằm đào tạo những trí
tuệ Việt Nam có khả năng đưa nước ta hội nhập vào văn minh tiến bộ
không ngừng của thế giới.
Đặng Vũ Chấn Nguồn: Việt Tân
|