Trọng Nghĩa
Ngày
17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc xua quân tấn công các tỉnh miền Bắc
Việt Nam. Ngày 16 tháng 3, Bắc Kinh đã rút lui sau khi gặp sức kháng cự
mãnh liệt của lực lượng Việt Nam.
Ngày nay, chính quyền cả hai
nước đều không muốn nhắc đến sự kiện không tốt lảnh đó trong quan hệ
hai bên. Ba chuyên gia Ngô Vĩnh Long tại Mỹ, Carl Thayer tại Úc và
Ramses Amer đã lật lại trang sử sóng gió đó trong quan hệ Việt Trung và
những hệ quả kéo dài đến nay.
Nếu chỉ căn cứ vào các tuyên bố
chính thức của hai chính quyền Hà Nội và Bắc Kinh trong gần hai chục
năm gần đây, ít ai có thể nghĩ rằng vào ngày 17 tháng hai năm 1979,
cách nay ba thập niên, Trung Quốc đã xua cả trăm ngàn quân tấn công vào
các tỉnh biên giới phiá Bắc Việt Nam, nói là để "dậy cho Việt Nam một
bài học". Tuy nhiên, sau vỏn vẹn ba tuần lễ giao tranh, gặp sức kháng
cự mãnh liệt của lực lượng võ trang Việt Nam, Bắc Kinh đã phải tuyên bố
''hoàn thành mục tiêu'' và rút quân về nước ngày 16 tháng ba.
Căng
thẳng giữa hai nước vẫn còn dai dẳng trong suốt một chục năm sau đó,
vớI những vụ đột kích thường xuyên và đẫm máu của phiá Trung Quốc vào
các vùng biên giới Việt Nam.
Phải chờ đến năm 1991, thì hai bên
mới bình thường hoá bang giao trở lại, với quan hệ càng lúc càng được
cải thiện, đặc biệt trong lãnh vực kinh tế thương mại, với trao đổi mậu
dich giữa hai bên vượt mức 20 tỷ đô la vào năm 2008. Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn dìm biến cố 1979 vào lãng quên
Chính
vì các mối quan hệ kinh tế hữu hảo đó mà ngày nay, cuộc chiến năm 1979
hầu như đều bị cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh hai chính quyền dìm vào quên
lãng, cho dù cách nay ba mươi năm, biến cố đó đã tàn phá các tỉnh biên
giới phiá Bắc của Việt Nam, gây thương vong cho cả trăm ngàn người ở cả
hai phiá.
Theo giáo sư Ramses Amer, chuyên gia về Châu Á Thái
Bình Dương tại trường Đại Học Stockholm (Thụy Điển) thì vào thời điểm
hiện nay, cả hai nước đều không có lợi gì khi khuấy động quá khứ trở
lại.
Điều mà chúng ta có thể ghi nhận là hai nước đang cố
tìm cách quên đi là đã có cuộc chiến tranh đó. Tôi không tin là sẽ có
những lễ kỷ niệm rình rang ở Việt Nam hay ở Trung Quốc.
Một
trong những lý do là Việt Nam có cả một chủ trương muốn khép lại quá
khứ, nhất là khi đó là một giai đoạn căng thẳng ngắn trong cả một quá
trình hữu hảo giữa hai đảng Cộng Sản... Nhắc lại vào lúc này, đối với
Hà Nội không có lợi gì cả.
Trung Quốc thì lại càng không muốn
nhắc lại vì lẽ bài học mà họ muốn dạy Việt Nam trong thực tế đã biến
thành một bài học quân sự lớn đối với chính họ. Thành tích của quân đội
Trung Quốc lúc đó đã hoàn toàn không đạt mong muốn của chính quyền Bắc
Kinh. Mặc dù là họ đã rêu rao là họ đã thành công, chiếm được một số
tỉnh lỵ Việt Nam dọc biên giới theo đúng kế hoạch đề ra, nhưng thực hư
thế nào thật khó biết. Hơn nữa, quân đội Việt Nam khi ấy cũng không cần
tung các đơn vị tinh nhuệ của mình vào vòng chiến, ngoại trừ ở khu vực
Lạng Sơn, nơi có đường đi thẳng xuống Hà Nội. Phải nói là trong suốt
cuộc chiến ba tuần lễ đó, quân đội chính quy của Trung Quốc đã phải đối
phó với bộ đội địa phương và dân quân Việt Nam, điều này lại càng nêu
bật thành tích quân sự của Việt Nam.
Tuy nhiên, do quan hệ xấu
với Trung Quốc vào thời đó, Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc, đã phải trả
một cái giá rất đắt. vì phải nhớ rằng tình hình kinh tế miền Bắc Việt
Nam tệ hại đi rất nhiều sau năm 1979 so với thời kỳ trước đó, trong
cuộc chiến chống Mỹ chẳng hạn, khi Bắc Kinh giúp đỡ Hà Nội rất nhiều về
mặt kinh tế. Bên cạnh đó, vùng biên giới đã bị tàn phá trong lúc mà
trong cuộc chiến tranh trước đó, khu vực này không bị hủy hoại nhiều vì
Hoa Kỳ tránh không dội bom xuống đấy vì sợ xâm phạm vào lãnh thổ miền
Nam Trung Quốc.
Nhìn chung, tôi cho rằng ngày nay, cả hai chính
phủ, cả hai đảng đều không muốn đề cập đến cuộc chiến đó nữa. Ở Việt
Nam, theo tôi, đối với những người vẫn xem Trung Quốc là một mối đe
dọa, như ở Biển Đông chẳng hạn, thì họ muốn kỷ niệm cuộc chiến đó để
chứng tỏ rằng Trung Quốc có thể rất nguy hiểm đối với Việt Nam. Còn
những người muốn nhấn mạnh đến một giai đoạn mới trong quan hệ Việt
Trung, lẽ dĩ nhiên là họ không muốn nhắc lại chuyện xưa đó. Bắc Kinh thất bại về quân sự nhưng thành công về chiến lược Khi
mở cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, mục tiêu từng
được tuyên bố của Bắc Kinh là trừng phạt Hà NộI về tội đã công khai
thách thức uy quyền của Trung Quốc. Sáu tuần trước đó, Việt Nam đã đưa
quân qua Cam Bót đánh đuổi chế độ diệt chủng Khờ Me Đỏ của Pol Pot, một
đồng minh của Trung Quốc.
Theo giới phân tích, ngoài nguyên nhân
trực tiếp đó, Bắc Kinh cũng muốn dằn mặt một nước Việt Nam đang ngày
càng bướng bỉnh, lại có hành động truy bức cộng đồng người Hoa sinh
sống tại Việt Nam. Trả lời câu hỏi của RFI, giáo sư Carl Thayer thuộc
Học Viện Quốc phòng Úc nhần mạnh :
Về mặt chính thức thì
Trung Quốc xâm lấn Việt Nam để ''bình định vùng biên giới'' sau nhiều
năm căng thẳng vớI các sự cố ngày càng nhiều. Đặng Tiểu Bình tuyên bố
muốn đạy cho Việt Nam một bài học. Có nhiều yếu tố thúc đảy Bắc Kinh mở
chiến dịch mà họ mệnh danh là ''phản công tự vệ''. DướI mắt Trung Quốc,
Hà Nội đã vô ơn đối với Bắc Kinh : sau khi được giúp đõ trong cuộc
chiến chống Mỹ thì đã lại quay sang bạc đãi cộng đồng người Hoa, kề vai
sát cánh với Liên Xô lúc đó bị Trung Quốc coi là kẻ thù, rồi lại xâm
lăng Cambốt vố là đồng minh của Bắc Kinh.
Nguyên nhân thực thụ
thúc đầy Bắc Kinh tấn công Việt Nam đó là vì Hà Nội đã thách thức uy
quyền và ảnh hưởng của Trung Quốc tại vùng Đông Dương. Lúc đó, Trung
Quốc phải hành động để chứng tỏ uy tìn trong việc bảo vệ đồng mính Khờ
Me Đỏ. Thế nhưng, thay vì nâng cao được uy tín thì Trung
Quốc đã bị mất mặt vì cuộc tấn công đã bị bộ đội Việt Nam chặn đứng,
gây tổn thất nặng nề cho Giải Phóng Quân Trung Quốc. Một trong những
mong đợi của Trung Quốc là Việt Nam sẽ tung quân đội chính quy vào vòng
chiến, và sẽ phải rút bớt binh lính của mình từ Cam bốt về để điều lên
mặt trận phiá Bắc.
Trong cả hai lãnh vực này, như hầu hết các
chuyên gia quân sự đều ghi nhận, Việt Nam đã không bị rơi vào bẫy. Quân
đội chính quy Việt Nam không cần phải lâm trận, trong lúc bộ đội địa
phương và dân quân vùng biên giới đã thành công trong việc cản đướng
các xe tăng và quân linh Trung Quốc. Còn tại Cambốt, không những Việt
Nam không rút quân mà lại còn tăng viện thêm cho lực lượng của mình.
Sau
ba tuần lễ giao tranh, trong lãnh thổ Việt Nam, sau khi giành được
quyền kiểm soát nhiều thành phố của Việt Nam, nhất là các tình lỵ Lạng
Sơn Cao Bằng, Lào Cai, ngày 16 tháng ba, Trung Quốc tuyên bố hoàn thành
mục tiêu và rút quân về nước sau khi tán phá toàn bộ những nơi bị họ
chiếm đóng.
Dù ngắn ngày, nhưng cuộc chiến tranh Trung Việt vào
năm 1979 đã gây ra những tổn thất rất lớn, đặc biệt về nhân mạng. Theo
ghi nhận của giáo sư Carl Thayer, phiá Việt Nam chưa hề chính thức công
bố tổn thất của mình trong cuộc chiến đó.
Tuy nhiên, trong diễn
văn ngày 16 tháng ba năm 1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã
cho rằng họ đã giết được 37.000 bính lính Việt Nam, đánh bị thương
7.000 người và bắt được 5000 tù binh. Một số nguồn tin Trung Quốc khác
cho rằng họ đã hạ sát tứ 35.000 đến 45.000 bộ đội Việt Nam, trong lúc
phiá Việt Nam thì bị 28.000 người tử trận. Riêng phiá Việt Nam vào thời
ấy đã xác định số thương vong của quân đội Trung Quốc là 45.000 người. Theo
giáo sư Thayer, nếu tính chung, tổng số người chết và bị thương trong
cuộc chiến năm 1979, kể cả thường dân, có thể lên đến 75000 người. Theo
giới quan sát, về mặt quân sự thì Trung Quốc đã thất bại trong mục tiêu
đánh gục Việt Nam, nhưng về mặt chiến lược thì họ đã gặt hái một số
thành quả. Giáo sư Carl Thayer phân tích : Thất bại của
Trung Quốc vào năm 1979 tuy nhiên không phải là hoàn toàn. Bắc Kinh đã
khéo léo tuyên bố trước là chiến dịch đánh Việt Nam của họ được giới
hạn trong thớI gian và không gian. Họ đã chứng tỏ cho các nước Đông Nam
Á thấy là họ sẵn sàng dùng võ lực nếu vị thế và uy lực của họ trong
vùng bị thách thức. Một cách cụ thể thì chiến dịch của Trung Quốc đã
góp phấn làm cho Việt Nam bị cô lập trong vòng một thập niên tại vùng
Đông Nam Á.
Mặt khác, sau khi rút lui, Bắc Kinh vẫn duy trì áp
lực ở vùng biên giớI trong vòng một thập niên, bằng cách đe dọa tấn
công một lần nữa, buộc Việt Nam phải bố trí lực lương phòng thủ biên
giớI phiá Bắc.
Ngoài ra, chiến tranh biên giớI với Trung Quốc
cũng đã khiến cho việc khởi động tiến trình đổI mớI ở Việt Nam bị chậm
đi 7 năm. Vào năm 1978, Đặng Tiểu Bình bắt đầu tung ra các biện pháp
cải tổ kinh tế. Giả sử mà Hà NộI Việt Nam thân thiện vớI Bắc Kinh vào
lúc ấy, thì có lẽ Việt Nam đã có thể học tập mô hình Trung Quốc và tiến
hành đổI mớI kinh tế tại Việt Nam sớm hơn.
Một hệ quả khác là
sau cuộc tấn công của Trung Quốc, Việt Nam đã bị buộc phải tùy thuộc
vào Liên Xô, với việc cho Maxtcơva sử dụng căn cứ hải quân Cam ranh.
Nói cách khác, tình trạng này đã làm thương tổn uy tìn của Việt Nam vớI
tư cách một quốc gia độc lập. Ba mươi năm sau ngày nổ ra
cuộc chiến tranh Trung Việt, quan hệ Việt Nam Trung Quốc đã hữu hảo hẳn
lại. Theo giới phân tích cả hai nước, đã rút ra được nhiều bài học từ
sự kiện lịch sử đó. Giáo Sư Ramses Amer nhận định :
Sau cuộc
chiến, cả hai nước đều thấy rằng nếu không giải quyết dứt điểm vấn đề
biên giới, tranh chấp có thể bùng lên trở lại, đặc biệt khi quan hệ
không thuận thảo. Điều đã xẩy ra trong quá khứ hoàn toàn có thể tái
điễn trong tương lai. Điều quan trọng không chỉ là ký kết hiệp định
biên giới mà là hoàn tất việc cắm mốc để có thể đạt tới một cái gì đó
tích cực ba mươi năm sau cuộc chiến. Sự kiện hai bên hoàn tất việc cắm
mốc trước đầu năm 2009 theo tôi là một biểu tượng rất lớn, vì trên bãi
chiến trường cách đây 30 năm, đã trở thành vùng biên giới được phân
định mới nhất trên thế giới. Ý nghĩa biểu tượng nằm ở chỗ hai nước đã
khẳng định là quan hệ song phương dựa trên các nguyên tắc quốc tế chi
phối các quốc gia có chủ quyền chứ không còn là các kiểu quan hệ đặc
biệt như dựa trên chủ nghĩa cộng sản châu Á chẳng hạn, cho rằng tương
đồng ý thức hệ đó có thể giải quyết mọi sự ! Theo tôi đó là bài học lớn
nhất mà hai nước rút ra từ cuộc chiến tranh cách nay ba mươi năm.
Một
bài học nữa theo tôi là Việt Nam đã thấy rõ rằng họ vẫn cần đến Trung
Quốc để phát triển kinh tế cho dù thằng được Trung Quốc về mặt quân sự.
Thắng được Pháp, thắng được Mỹ, và thắng luôn cả Trung Quốc. Những điểm
khác là trong khi Pháp, Mỹ đi rồi thì Trung Quốc vẫn còn đấy. Bài học
đối với Việt Nam do đó là tìm cách sống vớI thực tế đó.
Chiến
thắng của Việt Nam vào năm 1979 theo tôi nằm trong một loạt những thành
tích quân sự của nước này từ thập niên 40 thế kỷ trước đến nay. Phải
nói là vào năm 1979, quân đội Việt Nam được xem là thuộc loại hùng mạnh
nhất thế giới.
Thế nhưng, bài học đối với Việt Nam là Trung Quốc
có thể gây thiệt hại rất lớn cho Việt Nam, do đó quan hệ bình thường
với Trung Quốc là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế của
Việt Nam, vốn tùy thuộc rất nhiều vào sự tiếp giáp với miền Nam Trung
Quốc.
Những ai ghé Hà Nội vào thập niên 80 đều thấy rằng miến
Bắc Việt Nam thiếu thốn đủ điều, từ lương thực cho đến các mặt hàng
tiêu dùng khác vì trước đó các thứ này đều đến từ Trung Quốc.
Tóm
lại, đối với Việt Nam, bài học là cho dù họ có thể thắng Trung Quốc về
mặt quân sự, nhưng họ vẫn cần đến Trung Quốc để có thể phát triển kinh
tế.
Tuy nhiên, vấn đề dặt ra là để tranh thủ Trung Quốc duy
trì quan hệ hữu hảo, giới lãnh đạo Việt Nam đã tìm cách xoá nhoà trang
sử không tốt lành giữa hai đồng minh trong khối xã hội chủ nghĩa đó.
giáo sư Carl Thayer phân tích :
Ba mươi năm đã trôi qua từ
ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới. Dù các tàn phá của thờI kỳ đó đã
được thay thế bằng những đề án phát triển to lớn..., tâm lý bài Trung
Quốc có thể vẫn còn tồn tại, đặc biết trong giớI cựu chiến binh và các
gia đình của họ.
Tuy nhiên Việt Nam là một nhà nước độc đảng,
kiểm soát các phương tiện truyền thông và đảy mạnh tuyên truyền trong
dân chúng. Vào năm 1979, Hà Nội cho rằng chính chủ nghĩa sô vanh Đại
Hán đã gây ra chiến tranh chứ không phải là người dân Trung Quốc hiếu
hoà.
Một trong những di sản từ cuộc chiến tranh thời đó, đó là
giới lãnh đạo Việt Nam đã chủ trường quên đi những gì xẩy ra vào thời
đó. Các vết thương do cuộc chiến gây ra đã bị một chính sách xoá nhoà
trang sử đó bao phủ. Sách lịch sử ở Việt Nam không đề cập đến giai đoạn
đó. Các giảng viên tại khoá đào tạo sĩ quan nước ngoài đầu tiên tổ chức
cách đây một năm đã từ chối viện dẫn cuộc chiến tranh Trung Việt.
Thái
độ lãng quên tập thể tại Việt Nam đến từ ý muốn của giới lãnh đạo đảng
vốn tin rằng chính trị có thể lấn lướt sự thật lịch sử. Làm sao mà các
cán bộ đảng Cộng sản Việt Nam có thể giải thích được với dân chúng rằng
nươc Trung Hoa cộng sản đã tấn công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa nều
không đặt lại vấn đề ý thức hệ. Lý do là các nhà nước xã hội chủ nghĩa,
trên nguyên tắc, là những nước hiếu hoà không như các thế lực đế quốc! Tuy
nhiên trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng hùng mạnh, vẫn còn tranh chấp
chủ quyền vớI Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng
như sẵn sàng dùng thủ doạn gây sức ép trên các tập đoàn dấu khí ngoại
quốc muốn hợp tác vớI Việt Nam để khai thác các khu vực mà Bắc Kinh tự
nhận là của họ, chủ trương xoá nhoà quá khứ nêu trên đã không khỏi tạo
ra bất bình.
Trả lời câu hỏi của RFI, giáo sư Ngô Vĩnh Long,
chuyên gia về Trung Quốc tại Đại Học Maine Hoa Kỳ cho rằng điểm đáng
nói nhất về cuộc chiến tranh Trung Việt năm 1979 là sự kiện chính quyền
Việt Nam thời đó đã che giấu thông tin liên quan đến âm mưu của Bắc Kinh
Trung
Quốc có chủ định đánh Việt Nam từ lâu, nhưng chính phủ Việt Nam lại
không cho dân chúng cũng như thế giới biết. Đến khi bị đánh ở sườn phiá
Nam, qua việc chi viện cho Pol Pot rồi trực tiếp tấn công ở phiá Bắc
thì lúc đó Việt Nam mới có phản ứng. Như vậy là quá trễ!
Việt
Nam là một nứơc bé nằm gần một nước lớn, Trung Quốc có nhũng lợi ích
riêng của họ, Việt Nam phải nghiên cứu kỹ và báo cho dân chúng cũng như
thế giới biết chủ định của Bắc Kinh. Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, ý đồ gây hấn với Việt Nam đã từng được Trung Quốc bộc lộ từ trước năm 1979 : Trung
Quốc bực Việt Nam, không muốn Việt Nam hoà đàm với Mỹ năm 1969. Sau năm
1972 khi Nixon sang Trung Quốc, Trung Quốc từng hứa với Mỹ là sẽ bắt
Việt Nam làm theo điều mà Mỹ muốn. Khi đó, Việt Nam không chiụ và Trung
Quốc trừng phạt Việt Nam bằng cách cắt viện trợ và sau năm 75, Trung
Quốc chi viện cho Pol Pot đày đủ để trang bị cho quân lính Khờ Me Đỏ.
Lực lượng Pol Pot lập tức lập tức đánh Việt Nam sau tháng tư năm 1975.
Chính
phủ Việt Nam dĩ nhiên là biết rõ ý đồ Trung Quốc như thế nào, nhưng lại
không nói cho dân chúng biết, và để cho tình hình quá muộn. Bài học
ngày hôm nay cũng như thế. Có rất nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc, hoặc là chủ ý của Trung Quốc để chèn ép Việt Nam.
Thế nhưng, Việt Nam vẫn lặng thinh và ký các bản tuyên bố hợp tác toàn
diện với Trung Quốc.
Theo tôi, làm sao có thể hợp tác toàn diện
được khi mà vào năm 1979, Trung Quốc đã nhất định cắn Việt Nam thật
đau, cho chảy máu để chứng minh với Mỹ và các nước khác là họ không còn
ở trong phe xã hội chủ nghiã nữa. Thế mà Việt Nam bây giờ phải chăng
vẫn còn không hiểu chính sách của Trung Quốc là như thế nào cho nên
không muốn cho dân chúng hiểu là thực tâm của Trung Quốc. Tôi nghĩ như
vậy rất là nguy.
Về nguyên nhân thực thụ khiến Trung Quốc xua quân qua Việt Nam vào năm 1979, giáo sư Ngô Vĩnh Long phân tích :
Trung
Quốc viện cớ Việt Nam có nguy cơ vào chiếm Kampuchea, cho nên phải
đánh và dạy cho Việt Nam một bài học. Đó là cái lý do Trung Quốc nói
ra, nhưng thực ra, khi Đặng Tiểu Bình qua Mỹ, nói chuyện với chính
quyền Carter, ông ta đã đồng ý với chính quyền Hoa Kỳ là cần đánh Việt
Nam để dằn mặt các nước khác trong khu vực.
Hiện nay, theo tôi
thì nhiều ngườI trong chính quyền Việt Nam thấy Trung Quốc như ''gà
phải cáo''. Có nhiều chuyện, lẽ ra phải nói cho thế giớI biết thì lại
lặng thinh, lại còn không cho công dân Việt Nam hay là những người
nghiên cứu Việt Nam đưa những vấn đề này ra để bàn luận, tranh cãi.
Trong lúc đó thì Trung Quốc muốn nói gì về Việt Nam thì nói. Về dụng tâm của Trung Quốc vào năm 1979 khi đánh Việt Nam vào năm 1979, Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho biết : Trung
Quốc đã nói ngay từ đầu, cả 5, 6 tháng trước khi Đặng Tiểu Bình qua Mỹ,
là sẽ đánh Việt Nam, để cho Việt Nam một bài học. Đánh Việt Nam cho đến
mức nào mà thôi, rồi họ sẽ rút, không muốn kéo dài mãi. Và khi họ đánh
Việt Nam thì phải phá tan, nghiã là tàn phá kinh khủng 6 tỉnh miền Bắc.
Họ muốn dậy cho Việt Nam một bài học là ''nếu mày không nghe lời tao
thi tao sẽ phạt mày''.
Dù không thắng Việt Nam về mặt chính trị lúc đó, Trung Quốc đã dùng sự kiện này để tuyên truyền chống Việt Nam mười mấy năm sau
Phải
nói là Đặng Tiểu Bình thu lợi rất là lớn trên vấn đề quân sự vì ông ta
thực hiện chủ trương 4 hiện đại hoá, trong đó quan trọng nhất là hiện
đại hoá quân đội. Làm sao để chứng minh cho dân chúng Trung Quốc quân
đội của họ yếu kém, cần phải hiện đại hoá. Thế là Bắc Kinh đưa những
cái có thể gọi là đạo binh kém cỏi nhất sang đánh Việt Nam, để rồi sau
đó, khi rút lui, để ngưòi ta nói là quân đội Trung Quốc như thế cũng bị
thiệt hại thế này thế kia, Đặng Tiểu Bình dùng cái đó để đẩy cái vấn đề
hiện đại hoá quân đội Trung Quốc klên thành ưu tiên. Điều này đã được
nhiều người nghiên cưú về Trung Quốc chứng minh. Theo giáo
sư Ngô Vĩnh Long, như vậy Hệ quả cuộc chiến Trung Việt đối với Việt Nam
rất nặng nề, đặc biệt trong việc tạo ra tâm lý e ngại Trung Quốc trong
giới lãnh đạo : Hệ quả cuộc tấn công Việt Nam, theo tôi,
là sự kiện nhiều người trong giới lãnh đạo Việt Nam thấy Trung Quốc là
sợ và muốn làm hài lòng Trung Quốc. Thế nhưng ta không thể nào chiều ý
Trung Quốc 100% được, ví dụ như là việc ký kết các hiệp định nói là
Việt Nam sẽ hợp tác toàn diện trong mọi lãnh vực đối với Trung Quốc, kể
cả trong vấn đề đào tạo cán bộ, rồi cho Trung Quốc biết về tình hình
Việt Nam thế này thế kia.
Tôi nghĩ như vậy ấy là quá mức. Không
có một đất nước nào trên thế giới mà có thể hợp tác toàn diện với một
nước khác được. Kể cả trong gia đình, vợ chồng với nhau cũng có nhiều
chuyện, và khi không đồng ý là phải nói ra, phải nói cho nhau biết.
Đằng này tôi nghĩ là sau khi bị Trung Quốc trừng phạt như vậy, nhiều
người Việt Nam như tôi vừa nói, là đã thấy Trung Quốc cũng giống như là
gà thấy cáo. Như vậy rất là khó cho vấn đề giao lưu với Trung Quốc về
lâu về dài, bởi vì Trung Quốc sẽ càng ngày càng ép Việt Nam.
Đến
khi mà dân chúng Việt Nam không chiụ được nữa, tôi e rằng đó sẽ là một
vấn đề gây rất khó khăn, không những giữa chính quyền Việt Nam với dân
chúng mà cả giữa Việt Nam vớI Trung Quốc. Nếu mà mình muốn có một sự
hợp tác ổn định và lâu dài, thì phải có một sự công bằng, và bình đẳng
giữa hai bên. Ngoài ra việc bưng bít thông tin về quan hệ vớI Trung Quốc theo giáo sư Ngô Vĩnh Long cũng là một điều tai hại : Hiện
nay, dân chúng Việt Nam cũng không hiểu rõ thực sự vấn đề lịch sử lúc
đó là như thế nào, cũng như những vấn đề nổi cộm trong quan hệ giữa
Việt Nam Trung Quốc từ năm 1979 đến giờ.
Về những chuyện này,
bên Trung Quốc họ muốn nói gì họ nói, trong khi đó phiá Việt Nam thì sợ
mất hoà khí với Trung Quốc, thành ra không dám nói ra những vấn đề này.
Tôi thấy là nhièu những người nghiên cứu về Trung Quốc ngay ở Việt Nam
cũng không nói ra, sợ như vậy là mất hoà khí. Tôi nghĩ đây là một vấn
đề rất là đáng lo ngại.
Trong sách sử Việt Nam, giai đoạn chiến
tranh đó không những không được đề cập tới, mà bao nhiêu vấn đề trong
quan hệ giữa hai nước từ hồi tái lập bang giao cũng không đưọc nhắc
đến. Rất nhiều chuyện dân chúng không biết.
Theo tôi, không đề
cập tới như vậy rất nguy hiểm. Ở Việt Nam, có rất nhiều người thông
thạo tiếng Trung Quốc, nhưng mà tôi không thấy có những nhóm nghiên cứu
về Trung Quốc một cách kỹ càng, hay là có nhưng bị che giấu. Trong bao
nhiêu năm tôi về Việt Nam từ năm 1979 đến nay, tôi đã đi tìm những đồng
nghiệp nghiên cứu về Trung Quốc để có thể đàm thoại, nhưng rất khó, bởi
vì hình như có chính sách là không được nói về Trung Quốc. Đối
với giáo sư Ngô Vĩnh Long, chủ trương thực dụng hiện nay, tránh né dụng
chạm đến Trung Quốc để duy trì quan hệ hữu hảo đạc biệt là về mặt kinh
tế, là một tính toán không đúng : Là một nước nhỏ bé ở gần
một nước lớn, Việt Nam phải cho thế giới biết là mình bị chèn ép như
thế nào, hay là phải báo cho nước lớn biết là họ nên có thái độ vừa
phải, nếu không thì mình sẽ ''la làng''. Không nên để họ nói môi hở
răng lạnh, nhưng mà cái răng cứ cắn môi hoài, cắn chẩy máu không biết
bao nhièu lần và cứ để cho nó cắn. Tôi nghĩ cái vấn đề đó không đúng.
Nếu Việt Nam cứ để cho Trung Quốc ép mình, từ vấn đề biên giới, chuyện
đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cho đến vấn đề thương mại giữa hai bên, ép mãi
cho đến cuối cùng, nghiã là Việt Nam lọt hẳn vào quỹ đạo của Trung
Quốc. Nếu Việt Nam vào cái quỹ đạo của Trung Quốc, thì làm sao Việt Nam
có thể độc lập cho được.
Ông Hồ Chí Minh từng nói là không có gì
quý hơn độc lập tự do. Đánh thắng Mỹ rồi thì Việt Nam đang lọt vào cái
thế có thể nói là bị Trung Quốc làm cho mất độc lập, và phần nào mất tự
do.
Như tôi đã nói, cái hậu quả năm 1979, đó là sự kiện sau đó,
vì sợ mất hoà khí với Trung Quốc, nên Việt Nam cứ nhượng bộ mãi, có
nhiều chuyện đáng lẽ không nên nhượng bộ, nên cho dân chúng, cho thế
giới biết thì Việt Nam cứ lặng thinh. Tôi nghĩ khi mà có chuyện lớn xẩy
ra thì làm sao mà người ta biết để mà nguoì ta có thể ủng hộ mình.
Tôi
cho rằng để bảo vệ đất nước mình, hay là để tự vệ, ta phải làm như
những con cá nhỏ thường đi cả bày. Muốn bảo vệ mình, Việt Nam đương
nhiên phải có những quan hệ tốt với các nước láng giềng. Việt Nam có
một vị trí rất quan trọng, nếu năng động sẽ lôi kéo được bè bạn trong
khu vực và thế giới để giúp đỡ bảo vệ Việt Nam. Nếu mà Việt Nam cứ lẻ
loi đi với Trung Quốc, để bị họ ngày càng chèn ép, thì tôi sơ rằng vấn
đề rất nguy, không những cho Việt Nam mà cho cả khu vực.
Trọng Nghĩa Nguồn: RFI
|