Ai sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ trong một thế giới vô chính phủ cũng phải canh cánh câu hỏi: Khi nào thì anh ta có
thể đánh mình, và làm sao để mình không bị anh ta đánh?
Đây cũng là một câu hỏi thường trực cho các chính sách quốc phòng và ngoại giao của Việt Nam, và anh hàng xóm khổng lồ của
Việt Nam là Trung Quốc.
Quy luật lịch sử
Khi nào thì Trung Quốc có thể đánh Việt Nam? Tương lai không thể nói trước được, nhưng nếu lịch sử cho thấy có quy luật thì
có nhiều khả năng quy luật đó sẽ tiếp tục ứng nghiệm trong tương lai.
Lịch sử từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời có ba lần lớn và một số lần nhỏ hơn Trung Quốc ra quân đánh Việt Nam.
Lần thứ nhất năm 1974, Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa.
Lần thứ hai năm 1979, Trung Quốc tấn công toàn tuyến biên giới trên bộ, vào sâu nhiều chục cây số, phá huỷ cơ sở vật chất,
rồi rút về sau đúng một tháng.
Lần
thứ ba năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 bãi đá trong vùng lân cận các đảo
do Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, riêng vụ đụng độ chiếm đá
Gạc Ma (Johnson South Reef) bắn cháy ba tàu vận tải và giết khoảng 70
thuỷ thủ của Hải quân Việt Nam.
Những lần
đánh nhỏ hơn bao gồm các cuộc tấn công ở biên giới sau cuộc chiến 1979,
liên tục cho đến năm 1988. Trong thời gian này, Trung Quốc đã chiếm
được một số điểm cao chiến lược dọc biên giới như ở các huyện Vị Xuyên,
Yên Minh (tỉnh Hà Giang) và Cao Lộc, Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn). Các
cuộc lấn chiếm này dường như đã được hợp pháp hóa tại Hiệp ước biên
giới trên bộ năm 1999.
Ngoài ra,
trên quần đảo Trường Sa sau năm 1988, Trung Quốc đã chiếm thêm các bãi
đá ở gần vị trí đóng quân của Việt Nam như Én Đất (Eldad Reef) và Đá Ba
Đầu (Whitson Reef) vào các năm 1990, 1992, và sau đó chiếm đá Vành Khăn
(Mischief Reef) ở gần Philippin năm 1995.
Thế và Thời
Tư
duy chiến lược Trung Hoa đặc biệt coi trọng chữ Thế và chữ Thời. Các
cuộc tấn công Việt Nam cho thấy có một quy luật khá nhất quán trong
việc Trung Quốc chớp thời cơ vào lúc thế của họ đi lên và thế của đối
phương đi xuống để tung quân ra đánh.
Thời điểm
tháng 1-1974, Trung Quốc đánh Hoàng Sa đang do Việt Nam Cộng hòa kiểm
soát là sau khi Mỹ cam kết chấm dứt can thiệp quân sự ở Việt Nam (Hiệp
định Paris tháng 1-1973) và Quốc hội Mỹ cấm Chính phủ can thiệp trở lại
(Tu chính án Case-Church tháng 6-1973), tạo ra một khoảng trống quyền
lực ở khu vực và khiến cho Việt Nam Cộng hòa chới với không nơi nương
tựa.
Trong khi đó
thế của Trung Quốc đang dâng lên với việc Bắc Kinh trở thành một thành
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (tháng 10-1971) và từ
địa vị kẻ thù của cả hai siêu cường (Liên Xô và Mỹ) trở thành đối tác
của Mỹ (với Thông cáo chung Thượng Hải tháng 2-1972).
Trung Quốc tấn công Việt Nam năm 1979 là để trả đũa Việt Nam đưa quân vào Campuchia nhưng cũng là khi thế của Việt Nam đi
xuống trong khi thế của Trung Quốc đi lên.
Một
tháng sau khi Việt Nam và Liên Xô ký liên minh quân sự (tháng 11-1978)
thì Trung Quốc và Mỹ cũng tuyên bố lập quan hệ ngoại giao. Đồng thời,
Việt Nam đang bị thế giới ngoài phe Liên Xô tẩy chay vì chiếm đóng
Campuchia nên thế của Việt Nam đang xuống rất thấp.
Các cuộc tấn
công của Trung Quốc dọc biên giới trong các năm từ 1980 đến 1988 diễn
ra trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục bị bao vây cô lập với thế giới bên
ngoài trong khi Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam, cũng bị cô lập
trên trường quốc tế (do đưa quân vào Afghanistan) và, cộng với những
khó khăn kinh tế, phải đi vào giai đoạn hòa hoãn và thỏa hiệp với Trung
Quốc cũng như phương Tây.
Chiến dịch chiếm một phần Trường Sa năm 1988 của Trung Quốc khởi sự từ năm 1986, khi Liên Xô chuyển sang nhượng bộ chiến lược
với phương Tây và Trung Quốc, đồng thời rục rịch rút lui ảnh hưởng khỏi Đông Nam Á cũng như toàn thế giới.
|
|
Hai nước Việt Trung đã quyết định xong về biên giới trên bộ |
Bài
nói tại Vladivostok của lãnh tụ Liên Xô Gorbachov ngày 28-7-1986 tỏ ý
Liên Xô sẵn sàng chấp nhận các điều kiện Trung Quốc đưa ra để bình
thường hóa quan hệ Xô-Trung (Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan và giảm
căng thẳng ở biên giới Xô-Trung, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia) đánh
dấu sự thay đổi chiến lược trong chính sách của Liên Xô ở châu Á, đồng
thời cũng là chỉ dấu cho thấy thế của Liên Xô đi xuống và thế của Trung
Quốc đi lên.
Trong các năm sau, việc Liên Xô rút lui trong khi Mỹ không trám vào đã thực sự tạo ra một khoảng trống quyền lực ở khu vực.
Trong
khi ấy Việt Nam vẫn bám vào Liên Xô mà không phá được thế bị cô lập.
Một nghị quyết mật của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam điều chỉnh
cơ bản chiến lược đối ngoại từ dựa vào Liên Xô sang “đa phương hóa” chỉ
được thông qua vào tháng 5-1988, hai tháng sau vụ đụng độ ở quần đảo
Trường Sa.
Xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn 1980-1988 có thể coi là dư chấn của cuộc chiến năm 1979. Các cuộc
chiếm đảo ở Trường Sa thời kỳ 1990-1992 cũng có thể coi là dư chấn của chiến dịch năm 1988.
Thời kỳ 1980-1988, Việt Nam tiếp tục bị bao vây cô lập trong khi Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam, đi vào giai đoạn hòa
hoãn và thỏa hiệp với Trung Quốc.
Thời
kỳ 1990-1992, tuy là những năm Trung Quốc bị phương Tây cô lập phần nào
sau vụ Thiên An Môn, cũng lại là những năm Việt Nam mất hẳn chỗ dựa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu trong khi vẫn chưa được nhận vào ASEAN và
chưa bình thường hóa quan hệ được với Mỹ.
Việt Nam làm gì?
Hiện nay Việt Nam có thể làm gì để Trung Quốc không đánh? Lý thuyết quan hệ quốc tế gợi ý năm phương pháp chính: 1) cùng chung
một nhà, 2) ràng buộc bằng lợi ích, 3) ràng buộc bằng thể chế, 4) răn đe quân sự, 5) răn đe ngoại giao.
Phương
pháp “cùng chung một nhà” xem ra không ổn vì ít nhất ba lý do. Thứ
nhất, Trung Quốc rất thiếu cảm tình với Việt Nam và kinh nghiệm quan hệ
với Việt Nam khiến Trung Quốc tin rằng Việt Nam hay tráo trở. Các cuộc
thăm dò dư luận ở Trung Quốc cho thấy Việt Nam cùng với Mỹ và Nhật Bản
là ba nước bị người Trung Quốc ghét nhất trên thế giới. Thứ hai, Trung
Quốc chỉ coi Việt Nam là đồng chí chứ không phải đồng minh. Thứ ba,
lịch sử cho thấy quan hệ “gắn bó như môi với răng” giữa Hà Nội và Bắc
Kinh vẫn không ngăn được Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, nẫng tay
trên người “đồng chí anh em” Bắc Việt.
Phương pháp
“ràng buộc bằng lợi ích” sẽ không ngăn được Trung Quốc đánh ở Biển Đông
vì lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông có vị trí rất cao trong chiến
lược lớn của Trung Quốc. Biển Đông là yết hầu con đường tiếp tế vật tư
và nhiên liệu cho Trung Quốc từ Trung Đông, châu Âu, châu Phi, Nam Á và
Đông Nam Á, với 2/3 lượng dầu khí nhập khẩu và 4/5 lượng hàng hóa nhập
khẩu của Trung Quốc đi qua.
Biển Đông
cũng là bàn đạp để khống chế Đông Nam Á, một khu vực mà nếu Trung Quốc
khống chế được thì sẽ có thể quy phục được Nhật Bản và trung lập hóa cả
Mỹ lẫn Ấn Độ, còn nếu Trung Quốc không khống chế được thì sẽ không thể
ngoi lên địa vị đứng đầu châu Á. Trung Quốc không có lợi ích nào ở Việt
Nam, kể cả trong hiện tại lẫn trong tương lai, lớn hơn lợi ích ở Biển
Đông để Trung Quốc phải đánh đổi.
Phương pháp
“ràng buộc bằng thể chế” càng khó ngăn cản Trung Quốc ra tay khi cần
thiết vì Trung Quốc cũng như các nước lớn khác chỉ tuân thủ thể chế
quốc tế nếu thể chế ấy phục vụ lợi ích chiến lược của họ. Trong trường
hợp lợi ích chiến lược của họ đòi hỏi làm khác đi, họ sẽ có cách giải
thích thể chế quốc tế theo kiểu riêng để biện minh cho hành động của
mình.
Trung Quốc
đã làm như thế khi xâm lăng Việt Nam năm 1979, nói rằng để trừng phạt
Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đây không phải là đặc điểm riêng của Trung
Quốc mà các nước lớn đều như vậy. Mỹ và phương Tây đánh Nam Tư rồi tách
Kosovo ra khỏi nước này hay Nga đánh Gruzia rồi tách Nam Ossetia và
Abkhazia ra khỏi nước này đều nói là dựa trên luật pháp và thể chế quốc
tế nhưng đó là luật pháp và thể chế quốc tế theo cách giải thích riêng
của họ.
Phương pháp
“răn đe quân sự” không phải là cách mà Việt Nam có thể làm với Trung
Quốc trong lúc này vì Việt Nam không có vũ khí hạt nhân để răn đe chiến
lược (trong khi Trung Quốc có) và lực lượng quân sự thông thường của
Việt Nam hiện còn quá yếu để có thể tạo sức mạnh răn đe chiến thuật đối
với Trung Quốc.
|
|
Ải Chi Lăng là di tích lịch sử nhắc lại trận quân Lê Lợi chém Liễu Thăng hồi thế kỷ 15 |
Còn
lại duy nhất phương pháp “răn đe ngoại giao”. Phương pháp này là dùng
quan hệ với các nước mạnh hơn Trung Quốc và áp lực của quốc tế để Trung
Quốc không dám đánh Việt Nam. Hiện nay trong khu vực, Trung Quốc vẫn
phải kiêng dè Mỹ, do đó Việt Nam quan hệ càng gần gũi với Mỹ bao nhiêu
càng có tác dụng răn đe bấy nhiêu. Một điểm nữa Việt Nam có thể tận
dụng là Trung Quốc muốn thế giới tin rằng họ không phải là mối đe dọa
đối với các nước.
Nếu những
lấn lướt ức hiếp của Trung Quốc với Việt Nam được thế giới quan tâm và
hiểu như bước đầu của một mối đe dọa lớn hơn đối với họ thì thứ nhất,
chúng có thể làm Trung Quốc yếu thế đi, và thứ hai, đó cũng là một lý
do để Trung Quốc phải cân nhắc kỹ hơn nếu có ý định đánh Việt Nam.
Bài học lịch sử
Quy luật rút ra từ lịch sử ba lần Trung Quốc đánh Việt Nam và qua phân tích năm phương pháp nói trên cho thấy để tránh không
bị Trung Quốc đánh, Việt Nam phải làm được ba điều.
|
Sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ mà không để bị đánh hoặc ăn hiếp quả là rất khó nhưng vẫn có thể được
|
Thứ
nhất, phải liên tục nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, đặc
biệt chú ý trong tương quan với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc có thêm bạn
thì Việt Nam cũng phải có thêm bạn mạnh hơn và nếu Trung Quốc xích lại
gần các nước thì Việt Nam còn phải xích lại gần các nước hơn. Không bao
giờ được để Việt Nam ở thế cô lập hơn Trung Quốc trên thế giới.
Thứ hai, phải hết sức bén nhạy với cán cân quyền lực trong khu vực và phải lập tức mạnh dạn điều chỉnh chiến lược đối ngoại
khi tương quan lực lượng trong khu vực biến đổi bất lợi cho Việt Nam.
Thứ ba, phải sáng suốt tìm ra ai là kẻ mạnh trong khu vực và đâu là chỗ yếu của Trung Quốc để thực hiện kế răn đe ngoại giao.
Trong
dài hạn, chỉ có kết hợp răn đe ngoại giao (kết thân với nước lớn và
tranh thủ dư luận thế giới) với răn đe quân sự (quân đội mạnh, đặc biệt
hải quân và không quân) và liên tục nâng cao vị thế quốc tế của mình
thì Việt Nam mới có thể tương đối yên tâm không bị Trung Quốc đánh.
Sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ mà không để bị đánh hoặc ăn hiếp quả là rất khó nhưng vẫn có thể được, nhất là khi anh
hàng xóm đó chưa phải là kẻ mạnh nhất trong vùng.
Bài viết thể hiện ý kiến riêng của tác giả, tiến sĩ Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), không nhất thiết phản ánh quan điểm
của Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng và Chính phủ Hoa Kỳ.
Shooter BìnhDương Ông
Vũ kính mến! Tôi thực sự khâm phục cách nhìn của ông. Nhưng tôi không
cho rằng dựa vào vũ khí hạt nhân là một điểm mạnh trong quân sự. Ông
nên nhớ rằng, Việt Nam đã đặt bút ký vào thỏa ước không phổ biến vũ khí
hạt nhân rồi. Trung Quốc là một nước lớn, và việc một nước lớn ngụy
biện cho chiến lược của họ là không thể tránh khỏi. Theo tôi thì hiện
tại Trung Quốc chỉ dám phe phẩy đuổi ruồi ở ngoài biên giới và hải đảo
nhằm gây anh hưởng và chờ cơ hội đối với VN chứ chưa thể làm gì được
VN. Chúng ta thấy rằng, Nhật Bản là một nước không có vũ khí hạt nhân,
nhưng họ đã cố gắng không để tầm ảnh hưởng bị mai một kể từ sau thế
chiến thứ hai. Và họ đã làm được điều đó. Việc ông nêu lên phương thức
nhằm tránh xung đột với Trung Quốc trên chiến trận ngoại giao là rất
hợp lý, nhưng theo tôi nghĩ thì lựa chọn phương pháp ngoại giao đa
chiều vẫn hơn là dựa dẫm vào một ai đó hiện tai đang có thế lực. Bài
học từ Liên Xô như ông đã viết trong bài này là bài học đắt giá nhất từ
trước tới nay.
XBPX Tôi
đồng ý với TS Lâm về chiến lược đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
nhưng theo tôi ý kiến của TS Lâm là chưa đủ và có phần phiến diện vì có
thể bản thân anh là Việt Kiều Mỹ. Theo tôi Nga là một đối tác hết sức
quan trọng để chúng ta, để qua họ, ràng buộc các lợi ích kinh tế và
chính trị với TQ. Nga đang cố tìm lại sự ảnh hưởng và kiểm soát của
mình ở khu vực Đông Nam Á và Việt Nam là chỗ dựa của Nga và Gazprom là
lá bài chủ lực của họ. Việc Gazprom đuợc giao quyền điều hành lô
112/113 (nơi bắt đầu của vùng biển tranh chấp tính từ phía Bắc) và gần
đây là 4 lô 129-132 chính là bước đi có lợi cho cả Nga và VN. Hiện
Gazprom đang có một kế hoạch "rất hoành tráng" tại VN. BBC trước đây có
đưa tin về việc VN đàm phán mua Chiến khu trục hạm của Nga, không biết
tình hình đến đâu rồi? TQ bị Nga ràng buộc nhiều thứ nhưng số một sẽ là
nguồn cung cấp năng luợng. Một khi quyền lợi kinh tế và chính trị của
Nga phát triển đến một mức độ tương đối ở VN, Nga sẽ lại là một ông anh
tốt bụng để VN có thể trong cậy vào sự che chở khi có chính biến (hoặc
để không xẩy ra chính biến). Câu hỏi tiếp theo của tôi sẽ là cảng Cam
Ranh, cho ai, để lảm gì và bao giờ?
Phạm Hồ Quang, VN VN
không thể tự vệ trước bất cứ nguy cơ xâm lấn nào của các nước lớn nếu
tình trạng nội lực của VN không thay đổi. Đây là thực tế. Còn các mối
quan hệ quốc tế đều thay đổi theo lợi ích của họ chứ không phải vì lợi
ích của VN. VN cộng hòa bị tấn công như thế mà đồng minh Mỹ còn mặc kệ
huống gì Việt Nam cộng sản. Kẻ thù lớn nhất của VN là sự trì trệ yếu
kém trong tất cả các hệ thống từ luật pháp, quân sự, ngoại giao, kinh
tế, xã hội.. của đất nước chứ không phải là từ một quốc gia nào khác.
Hy vọng các cá nhân có trách nhiệm đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích
quốc gia một chút thì VN mới có thể cất cánh đi lên. Nếu đất nước đã
mạnh rồi thì còn phải lo gì người nào bắt nạt.
Hùng, Sài Gòn Sau
năm 1945 một số quan niệm cũ như chiếm đất chiến thị trường thuần tuý
đã được các nước phương Tây thay đổi. Nhật: "hàng hóa của Nhật đến đâu
thì biên giới của Nhật đến đó". Mỹ cỗ suý cho Tự do thương mại vì với
họ quan trọng là biên giới mở. Nhưng riêng với TQ thì với quan điểm cũ
kiểu thực dân địa nên đã chọn con đường chiếm đất. Sai lầm là những
người cầm quyền thời đó với tư duy quá cũ vẫn coi Mỹ là đế quốc nên
chống họ đến cùng. Giờ nhìn lại đã trễ. Nhưng chưa quá trể. Hãy nhìn
Singapore họ cũng có kẻ thù là TQ, Malaysia... nhưng họ vẫn đứng vững
vì sao? Dân giàu thì nước mạnh. Mỗi người VN hãy làm việc nhiều hơn cho
con cái du học Mỹ nhiều hơn...Nên nhớ rằng cách đây 10 năm ai tin rằng
Nepal nay đã thành nước tự do trước VN. Nếu có thời cơ thì VN sẽ được
tự do ngay. Không có gì là vĩnh hằng và "muôn năm cả". Là người VN hãy
cố gắng và vững tin lên. TQ chỉ nhất thời đe doạ.
Công Lao Gia Tp:Hồ Chí Minh Các
phương pháp trên đều sai. Ông tiến sĩ Alexander Vuving chẳng hiểu gì về
Việt Nam. Phương pháp "răn đe ngoại giao" như ông nói nếu áp dụng thì
dân Việt Nam làm nô lệ là cái chắc. Lịch sử cho thấy mấy nước lớn có
thể vì lợi ích của mình mà bắt tay bán rẻ đồng minh bạn bè. Theo tôi
thì chỉ có một cách là hiện đại quân đội ngoài ra không còn cách nào.
Riêng về chống giặc ngoại xâm thì Việt Nam có thể tự hào là "không cần
một thằng nào chỉ bảo". Lịch sử đã cho thấy, mạnh như quân Nguyên (đánh
chiếm cả một phần châu Âu được cho là phát triển hơn) mà tướng lĩnh vẫn
phải chết yểu ở đất Việt. Lũ đồng minh Pháp, Mỹ, Anh, Úc và chư hầu tay
sai có vào đất Việt thì mỗi tên lính của bọn chúng cũng chỉ được người
Việt nhân từ cấp cho một khoả! ng đất đủ chôn cái xác thối. Muốn chiếm
Việt Nam? Trừ khi giết sạch người Việt trên thế giới.
Xyz Tp. HCM Không ai mượn ông tiến sĩ lưu vong phải lo hộ về tương lai an ninh của đất nước. Ý kiến của ông sặc mùi nô lệ, chỉ những kẻ
bỏ quê cha đất tổ mới nói được như thế.
Quân Trần VN Ở
Việt Nam ai cũng hiểu được vấn đề mà ông tiến sĩ Alexander dẫn giài.
Nhung Riêng tôi vẫn nghĩ, nếu chiếu theo qui luật ''mạnh thắng yếu
thua'' thi chúng ta không có gì phải lo sợ, Trung Quốc mạnh sẽ có nước
khác mạnh hơn để dạy dỗ, vấn đề là Việt Nam phải làm sao để lấy được
cảm tình và niềm tin đối với những nước mạnh hơn Trung Quốc, để Việt
nam nhận được sự ủng hộ của họ. Linh cảm của tôi lại thấy rằng, còn có
một điều gì đó nữa ở phía sau kịch bản này
Ohita HN Mọi
chính sách để tự bảo vệ trong thế giới hiện tại là phải dựa trên luật
quốc tế. Danh chính ngôn thuận để tự bảo vệ mình. Đừng làm gì đi ngược
lại lợi ích của quốc tế thì sẽ chiếm được sự quan tâm của đa số. Một
nước lớn không thể đánh cùng một lúc với nhiều nước nhỏ. Vậy hiện nay,
chính sách ngoại giao tốt, đa phương hóa quan hệ quốc tế chính là đường
lối để Việt Nam tự bảo vệ mình. Trung Quốc chẳng làm gì được Việt Nam
nếu quan hệ quốc tế của Việt Nam duy trì tốt.
Sakura Nhật bản Tôi đồng quan điểm với các quý vị Paul N và PPT. Còn ý kiến của "Ngài" Wise Quan chức Việt Cộng thì cần phải xem lại. Ngài
muốn cầm vũ khí Nhật để chống Trung Quốc hả? Hành pháp này, xưa như trái đất rồi!
Vô Vĩnh Viễn Ngụ
ngôn có câu: Nói thì giỏi, làm chẳng được bao nhiêu. Bài viết của ông
Lâm cũng không có gì mới mà báo đài đã nói trong thời gian qua. Cuộc
sống sẽ chứng minh tất cả. Tuy nhiên, nếu không là người Việt Nam thì
nói chuyện Việt Nam thì có gì đó khôi hài và thiển cận.
Phạm Lợi TP. HCM Ông
viết hay có logic nhưng tôi thấy bi quan quá. Nge ra thi phương pháp
thứ 5 là ổn nhất. Nhưng nếu như VN chọn giải pháp này cũng khó. Có thật
sự Mỹ, Nhật sẽ giúp mình. Mỹ rất thực dụng đã từng bắt tay TQ hy sinh
VNCH và hiện nay Mỹ cũng có nhiều ưu tiên. Quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam
Á cũng không quá lớn như chúng ta tưởng. Còn việc tác giả viết về điều
tra ở TQ thì Mỹ, Nhật, Việt Nam là 03 nước người TQ ghét nhất.... Số
liệu này có trung thực không?. Nếu là sự thực thì đảng CS Việt Nam
không nên rao giảng đạo lý mê hoặc dân mình về một nước bạn răng hở môi
lạnh như TQ được.
Giang NCT Hà Nội Đảng
CS Việt Nam và Đảng CS Trung Quốc tuy 2 nhưng là 1. Nhưng Đảng không
đại diện cho cả dân tộc Việt. Tôi sẽ khóc nếu một ngày thể chế dân chủ
thực sự có trên toàn cõi Việt Nam. Đa Nguyên Đa Đảng dẫn đến Đảng cầm
quyền là do dân bầu và vì dân thì mới tính được đường lối chống Trung
Cộng. Tôi mới chỉ 19 tuổi và Đảng hãy biết rằng thế hệ tôi rất nhiều
người như tôi.
Đoàn Kiến Quốc Tôi
đồng ý với các chính kiến và nhận xét đúng có cơ sở lý luận của các bạn
bởi vì tôi là nguời VN ,tôi yêu lịch sử hào hùng và Tổ Quốc tươi đẹp VN
. Nhưng các bạn ạ ! Lịch sử chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá trên
nhiều bình diện ,nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau . Chúng ta hãy để
quá khứ và thực tại của lịch sử VN- TQ (chính trong lòng người dân
Trung Quốc - ĐCSTQ hiẻu rõ hơn ai hết và luôn luôn mâu thuẫn ) hãy để
chính họ và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và các nhà sử học thế
giới đánh gía ,bình luận, mổ sẻ ,phanh phui . Tôi tin tuởng rằng sự
thật lịch sử và nhân chứng lịch sử mãi mãi còn đó không có thể đổi
trắng thay đen được.Chúng ta đang sống năm 2009 trong thế giới hòa bình
và phồn thịnh chúng ta nên tạm gác ! lại quá khứ và huớng tới tuơng lai
tươi sáng tốt đẹp hơn ( Hòa Bình - Hữu nghi - Hơp Tác -Phát triển &
thịnh Vượng ).Đó cũng là mong muốn chung của cả hai dân tộc Việt -
Trung và các quốc gia trên toàn thế giới. Xin cảm ơn các bạn . Chúc các
bạn thànhcông.Chào thân ái ! Đoàn Kiến Quốc- VN
Conan Sài Gòn Một
số bạn nói biết ơn TQ vì đã giúp đỡ VN trong chiến tranh chống Pháp, Mỹ
& VNCD. Tôi thì nghĩ ngược lại. TQ muốn sử dụng CS Bắc Việt để đánh
Mỹ & VNCH vì lúc đó VNCH theo Mỹ và dĩ nhiên TQ không muốn đồng
minh của Mỹ hiện diện sát sườn TQ như Hàn Quốc, Đài Loan hiện tại. Cho
nên TQ tiếp tế cho bắc CS đánh VNCH là vì lợi ích của TQ chứ không phải
vì giúp VN như các bạn lầm tưởng & nghe tuyên truyền của CS.
Nguyễn Tư Văn Kinh
nghiệm trong lịch sử chiến tranh VN đã cho thấy VN luôn "vừa đánh, vừa
đàm". Tức là chỉ dùng con đường ngoại giao, thì không thể thắng được kẻ
địch. Nếu không có chiến thắng Điện Biên Phủ, thì không thể có Hiệp
định Giơnevơ về hòa bình ở VN. Nếu không có sự thất bại của chiến dịch
ném bom B52 ở miền Bắc, thì người Mỹ chưa thể chịu ngồi ký Hiệp định
Pari về rút quân khỏi VN cuối năm 1972. Bởi vậy chiến lược răn đe ngoại
giao của ông Vuing không ổn lắm. VN cần phải sử dụng tất cả các vũ khí
có trong tay, không loại trừ bất kỳ khả năng nào, ngoại giao, kinh
tế,,,,nhưng quan trọng nhất, vẫn là củng cố khả năng quốc phòng. Yếu
nhất của VN hiện nay là hải quân. Nhưng mọi người hẳn còn nhớ báo chí
trong nước đưa tin công nghiệp đóng tàu của VN hiện nay nằm trong top 5
nước mạnh nhất thế giới đó sao.
Wise Là nước lớn, có vũ khí hạt nhân, bản chất lại tham lam, TQ khó tránh khỏi việc ăn hiếp VN trong tương lai. Với tầm nhìn chiến
lược, các thành phần trong Bộ CT chắc hẳn biết rõ điều đó hơn ai hết, không cần ai phải nhắc nhở.
Đối
với phía Nga, TQ đã có những hiệp ước quân sự ngầm. Hiện tại, trên thế
giới TQ chỉ sợ có Mỹ và đồng minh quân sự thân cận số một của Mỹ là Anh
và Israel (thật ra, không công khai tiết lộ nhưng ai cũng đoán là
Israel cũng có vũ khí hạt nhân từ lâu).
Nhật mặc dù là cường quốc kinh tế, viện trợ và giúp đỡ VN ta rất nhiều, nhưng vì không thể có được vũ khí nguyên tử nên không
là đối thủ của TQ trong tương quan quân sự.
Pháp tuy không thân thiện với Mỹ như Anh và Israel, nhưng thực tế vẫn luôn là đồng minh quân sự của Mỹ nếu có chiến tranh
xảy ra.
Vậy
ra, suy cho cùng VN cố gắng là đồng minh thân cận của Mỹ sẽ có thể giữ
vững được an ninh lãnh thổ. Nhưng biết làm sao hơn khi những đầu óc căm
thù "giặc Mỹ" vẫn còn chưa nguôi ngoai mặc dù đã qua hơn 30 năm chiến
tranh "chống đế quốc"?
Giấu tên Những
điều ông Lâm nói, người trong nước đều biết cả. Chỉ muốn nhờ ông làm rõ
hơn Việt Nam mà ông nói trong bài viết là Ai và của Ai? Và như thế Ai
sẽ mong muốn gì và họ mới biết cần thiết phải làm gì? Nếu không thì mọi
chuyện chỉ là đàm tiếu cho vui mà thôi.
ABC Tôi
ủng hộ những phân tích và nhận định của tiến sĩ Alexander Vuving. Bài
viết của ông tuy rất ngắn so với một đề tài mang tính chiến lược về
tương lai của VN, nhưng bài viết khá xúc tích, cụ thể và gợi ra nhiều
điều đáng để suy nghĩ.
Tôi mong CSVN không đặt lợi ích chính trị của Đảng lên quá cao, hãy đặt lợi ích của quốc gia lên hàng đầu, và vì vậy, hãy
tham khảo bài viết của tiến sĩ Alexander Vuving.
Dân Nếu
Trung Quốc tấn công Việt Nam, một trong những yếu điểm là mạng internet
kết nối Việt Nam và quốc tế, nếu đường cáp quang bị cắt đứt thì mạng
Việt Nam bị cô lập và những dịch vụ tài chính thương mại hoặc tin tức
từ thế giới đều bị ngưng trê.
Cách đây chừng một năm điều này đã xảy ra khi có trận động đất ở Đài loan lằm đứt dây cáp quang nối qua Hongkong. Thiết tưởng
chúng ta cần bảo vệ bằng cách dùng mạng vệ tinh hoặc là nối cáp quang đi qua Singapore nhiều hơn là Hongkong.
PPT Phân tích của Tiến sĩ có phần sâu sát, nhưng các giải pháp thì đưa ra chưa ổn. Thứ nhất, trên một bàn cờ cần để cho đối phương
thấy rằng tất cả quân cờ đều có thể gây hại.
Cả 5 giải pháp đều được quan tâm với những ưu tiên khác nhau tùy thời tùy thế, chứ không tách riêng.
Thứ
hai, hảy coi ngoại giao như một thế cờ chứ không phải một "răn đe".
Hàng xóm ta quá ư to con để có thể làm ẩu, hoặc khi "hiếp dâm" (thôn
tính), hoặc khi ẩu đã (đánh nhau) nếu thấy chúng ta dùng thế ngoại giao
để làm mất ảnh hưởng của họ trên trường quốc tế. Vấn đề bây giờ là phải
tự thân tạo nên khối lớn, mà trước hết là với các nước Đông Nam Á nơi
cùng chung trong một tổ chức. Thời Thế hiện nay TQ coi ĐNA là một đối
trọng.
Sự lơ là của
VN với khối là điều sai lầm. Hãy nhớ rằng tất cả các nước ĐNA đều sợ TQ
xâm lấn và một số trong họ cùng chung quyền lợi Biển Đông. Người Mỹ hay
Âu Châu sẽ phải bảo vệ vị thế một khối ĐNA cho dù có thể bỏ rơi VN nếu
quyền lợi ở đó không đáng để tranh đua với TQ.
Người ta có câu "nước xa không cứu được lửa gần". Cái Thế của VN bây giờ là khối ĐNA, còn cái Thời của VN chưa đến bao lâu
chủ nghĩa CS còn ngự trị độc tôn trên đất chữ S.
Nu Tôi đồng ý với ý kiến của ông tác giả. Viet nam chỉ có thể răn đe bằng ngoại giao. Nhưng e rằng ngay cả vấn đề này Trung quốc
cũng đã có các biện pháp ngăn chặn mất rồi.
Thực ra Trung quốc không chi muốn có Việt Nam đâu. Trung quốc muốn nhiều hơn cơ. Hãy nhớ rằng người Trung quốc dạy nhau từ
lúc còn trẻ con rằng mục tiêu của người đàn ông Trung quốc là "Tế gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Họ
muốn cả thế giới. Nhưng Việt Nam là nước gần họ, không phải là nước quá
nhỏ, và cũng yếu hơn các Đại quốc như Nga và Ấn Độ. Vì vậy quan hệ
Trung-Việt không chỉ phụ thuộc vào quan hệ hai nước mà phụ thuộc vào
quan hệ giữa Trung quốc với các nước khác. Nói cách khác, Việt Nam luôn
là nước mà họ mang ra mặc cả với các nước lớn.
Sự thật Nhiều người lên án TQ, một số phản đối chính quyền về những vấn đề quan hệ VN – TQ. Theo tôi, người lãnh đạo cũng là công
dân VN nên họ cũng có mong muốn bảo vệ đất nước.
Tuy
nhiên, do vấn đề rất phức tạp mà nhiều khi chúng ta không biết được,
nên họ chỉ có thể làm theo hướng có lợi nhất cho đất nước. Chúng ta còn
yếu về mọi mặt nên lép vế là điều tất nhiên, tuy có hơi ấm ức một chút
nhưng bù lại ta có cơ hội để sống và làm ăn.
Tôi mong
rằng mỗi người chúng ta cùng cố gắng phát triển kinh tế và khoa học,
đặc biệt là khoa học kỹ thuật quân sự. Thử hỏi chúng ta có thể làm gì
một cách thiết thực và hiệu quả ngoài việc hô khẩu hiệu phản đối TQ:
liệu ta có thể dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép TQ, hay ta có thứ vũ
khí quân sự g! để răn đe TQ?
Khi nào
chúng ta mạnh lên như đất nước Israel thì tự khắc TQ phải giao nộp lại
đất đai, biển đảo mà chúng đã cướp lại cho VN. Ngoài ra, tôi mong BBC
có thêm bài viết về vấn đề ảnh hưởng về kinh tế, văn hóa TQ hiện nay
đối với VN. Có vẻ như rất nhiều người chưa nhận ra là VN quá phụ thuộc
vào kinh tế của TQ. Về văn hóa thì hết chỗ nói, truyền hình từ TW đến
địa phương đưa nhau chiếu phim tàu. Dường như nhiều người có chỉ định
nghĩa độc lập về mặt lãnh thổ thôi.
Paul N Bài TS Vũ, chung quy cũng “thân Mỹ”, hoặc “thân hơn” với khối ASEAN, bao vây TC, nằm trong chiến lược của Mỹ? Hay là cả Ấnđộ
cũng lôi cuốn vào cuộc?
Chiến lược thân mỹ, VC cũng đã làm rồi. Trong khi Mỹ đang cân nhắc “quyền lợi” giữa TC và VC bên nào lợi hơn? Giả sử Mỹ quay
lưng thì VC phải làm sao? Thậm chí Mỹ còn gài cho “Cộng sản đánh Cộng sản”, “Ngư ông hưởng lợi”, thì sao?
Thành sự tại thiên, thành sự hay không là do lòng dân, vì lòng dân là lòng trời. Khối ASEAN và cả thế giới thấy anh điều hành
đất nước của anh mà không đoàn kết được nhân dân của anh, làm sao tôi dám tin anh?
Nobody Vũ
Hồng Lâm viết bài hay. Cứ như ông vừa đi qua ba cuộc chiến mà người
đồng chí vừa ra roi đánh anh bạn láng giềng. Năm phương pháp ông đưa ra
quả là thuốc tiên để chữa căn bệnh khuất nhục của chính giới Việt Nam.
Nhưng với điều kiện 15 vị đó vẫn còn là người Việt. Chúng tôi e là họ
cũng bị Hán hóa mất rồi!
|