Gần
đây trên mạng Internet liên tục xuất hiện các bài viết đề cập đến thời
gian đã qua, hay còn gọi là thời kỳ đã qua. Mặc dù không đưa ra những
mốc thời gian cụ thể, xong ai cũng hiểu rằng thời kỳ đó bắt đầu từ 1954
ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam.
Một nét đặc trưng và bao trùm lên trên tất cả mọi người dân Việt Nam trong thời gian đó là: Nỗi sợ và Cái hèn.
Chính
nỗi sợ làm cho chúng ta hèn. Vậy chúng ta sợ cái gì? Một điều chắc như
đinh đóng cột là chúng ta sợ Cộng Sản. Với chính sách chuyên chế vô
sản, với các cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, cải cách ruộng đất,… và
đặc biệt là chủ trương “Bóp lấy dạ dày nhân dân” đã làm cho dân tộc
Việt Nam từ một dân tộc anh hùng trở thành một dân tộc sợ hãi và hèn
nhát.
Nhân dân sợ Khi nhìn lại hơn
một triệu người dân Miền Bắc di cư vào Nam sau năm 1954. Nhìn lại tình
cảnh hỗn độn, dân chúng đua nhau tháo chạy khỏi Miền Nam năm 1975 và
thời gian sau đó ai trong chúng ta cũng có thể hình dung ra nổi sợ hãi
người cộng sản như thế nào. Không sợ làm sao được khi mẹ tôi nấu cơm
độn khoai không đủ 40% khoai liền bị lập biên bản. Ba tôi phải đem hai
cái bình điện (Ắc-qui) đục ra để làm chậu trồng rau, vì sợ rằng có bình
điện tức là nhà giàu, là tư sản, là có tội, là nợ máu nhân dân.
Giang hồ sợ
Có
một lần khi chứng kiến hai băng đảng giang hồ đang giáp mặt nhau chuẩn
bị tỉ thí trong một quán nhậu ở thành phố Nha Trang. Đôi bên đang dàn
trận với khí thế hừng hực, đột nhiên một trong những người cầm đầu của
một bên rút trong túi ra cái thẻ màu đỏ, đập xuống bàn kèm theo mấy câu
chửi thề. Ngay lập tức băng giang hồ bên kia biết rằng mình đụng phải
“thứ dữ” nên nhanh chóng rút lui, mặt xanh như đít nhái!
Trí thức sợ
Trí
thức là thành phần ưu tú của dân tộc, ấy vậy mà cũng sợ, cũng hèn. Để
diễn đạt nỗi sợ của trí thức, xin mượn mấy câu thơ dưới đây của nhà thơ
Bùi minh Quốc:
“Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu Thi nhau bốc phét để quên hèn.”
Lãnh đạo tôn giáo sợ
Ở
Việt Nam có hai tôn giáo lớn. Đứng đầu là Phật Giáo với hơn 80% dân số
theo Phật giáo. Chỉ thấy một số ít thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất của Hòa thượng Thích Quảng Độ có thể gọi là không biết sợ.
Tôn giáo lớn thứ hai là Công Giáo. Cũng vì sợ mà bao năm trời đã chấp
nhận im hơi lặng tiếng mặc cho xã hội đảo điên, mặc cho luân thường đạo
lý trở nên bèo dạt mây trôi.
Chính quyền sợ
Kể
cũng lạ, mọi thành phần dân tộc đều sợ công sản, vậy chính quyền cộng
sản thì sợ ai nữa. Nói zậy nhưng không phải zậy, đây mới chính là thành
phần sợ nhiều nhất, sợ lâu nhất và hèn hơn ai hết. Cái sợ thứ nhất là:
Cộng sản bé sợ cộng sản lớn. Cụ thể là hết sợ Liên Xô bây giờ đến sợ
Tàu. Phái Bắc nhượng đất, phía đông nhường biển, rồi bây giờ dâng cả
Tây nguyên luôn cho êm. Chưa hết, vừa rồi căng thẳng giữa các nước trên
biển đông, trong khi Phi, người Mã khẳng khái tuyên bố chủ quyền của họ
(dù chưa chắc là của họ) thì người ta lại thấy các bác trong bộ chính
trị lục đục “đi tàu”! Cái sợ thứ hai của người cộng sản là họ sợ chính
họ. Này nhé: Một Võ nguyên Giáp đang nắm binh quyền trong tay mà phải
lui về làm “Kế hoạch sinh đẻ”. Một Võ Văn Kiệt khi bênh hoạn không dám
nằm ở bệnh viện nhà nước mà phải nằm bệnh viện “đế quốc”. Một Lê khả
Phiêu, tin vào Đức Phật, thờ Đức Phật mà sợ không dám công khai xác
nhận niềm tin của mình.
Khi nào thì hết sợ?
Trong
suốt một thời gian dài mà cả dân tộc đều sợ thì có một số ít các nhà
yêu nước với đủ các thành phần, điển hình như: Trí thức có: Hà sĩ Phu,
Nguyễn thanh Giang,… . Phía tôn giáo có Cố Giám mục Nguyễn Kim Điền,
Linh mục Nguyễn văn Lý, Hòa thượng Thích Quảng Độ,… . Phía những người
cộng sản có Hoàng minh Chính, Trần Độ,… họ đã vượt qua cái sợ để nói
lên tiếng nói của lương tâm, của Công lý và Sự thật.
Từ
những hạt giống đó đến năm 2006 thì lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện
một bản tuyên ngôn về Nhân quyền. Khởi đầu chỉ với vài người “không
biết sợ”, sau vài tháng thì con số người “không biết sợ” đã lên đến vài
ngàn người. Sau đó giới trí thức trẻ bắt đầu “hết sợ” mà điển hình là
các gương mặt như Lê thị công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Phạm
Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Tiến Trung,…
Đến cuối năm
2008 thì lãnh đạo Tôn giáo bắt đầu “không còn sợ nữa” mà điển hình là
Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và Hội đồng Giám mục Việt Nam đã
lên tiếng bênh vực cho Công lý và Hòa Bình. Hưởng ứng cho phong trào
đấu tranh vì Công lý và Hòa Bình đó là giáo dân Việt Nam trong và ngoài
nước. Tiêu biểu cho thành phần “phó thường dân hết biết sợ” này là Giáo
dân giáo xứ Thái Hà. Với những gì được thể hiện qua quá trình đấu tranh
và đặc biệt là qua hai phiên tòa vừa qua, chúng ta có thể khẳng định
rằng: Nổi sợ hải đã qua đi và tiếng của Công lý, của sự thật đã xuất
hiện trong người dân Việt Nam.
Vậy
khi nào thi người cộng sản hết sợ và hết hèn? Khi nào thi người cộng
sản khẳng khái tuyên bố họ không còn tin vào chủ thuyết Mác-Lê nữa? Khi
nào thì họ đồng hành cùng dân tộc, khẳng khái bảo vệ biên cương, bảo vệ
Tổ quốc mà cha ông ta để lại? Những câu hỏi này xin dành cho những nhà
lãnh đạo cộng sản.
Một ngày cuối tháng 3 năm 2009 Trương Văn Phú
|