Ở một một thời điểm nào đó trong lịch sử
đau thương rất gần đây, ta quen nghe toàn những lời khen dành cho dân
tộc. Bây giờ, chạm trán với thực tế phũ phàng trên đường phố hay tại
những điểm đón khách du lịch, ta không khỏi bàng hoàng...
Hội
chứng
suy vong:
một viễn ảnh đáng sợ
Bùi
Đức Hào
Thời báo Kinh tế Sàigòn
số Xuân Kỷ Sửu vừa qua chọn chủ
đề “ xây đắp
niềm tin”. Đối
với một tờ báo kinh doanh “làm
ăn”, sự kiện này – tự nó –
là đáng chú ý, nhất là
khi nội dung chữ niềm
tin ở đây không
dính dáng gì đến những vấn
đề rất ư thời sự về kinh tế
và tài chính hiện nay.
Đặt vấn đề tin tưởng
về tinh thần và đạo
lý trên xứ sở của sự “ăn
xổi ở thì”, của thực trạng
“thượng vàng hạ cám”, quả
là một việc làm đầy ý
nghĩa: can đảm nhìn thẳng vào
thực tế, kiên trì động não
tìm một lối ra.
Thế nhưng, thực chất vấn
đề là gì? Có phải bây giờ
còn là lúc tự rà
soát tư cách chứng nhân (témoin)
hay tác nhân (acteur) của mỗi “kẻ
sĩ”, hoặc đi tìm cách đặt
nền tảng cho một tiến trình phản
tỉnh của xã hội?
Và, ngay như trong khuôn khổ
đó, đưa ý chấp nhận “trả
bằng cái giá khá đau đớn
của sự
thất vọng” để
được trở nên “trưởng
thành”, để
“thăng hoa thành tinh
thần hoài nghi khoa học”(1)
là một thái độ e có phần
quá thanh lịch, khắc kỷ và trí
thức, so với đối tượng cần
nhắm tới.
Nêu lên kỳ
vọng “khôi phục
một nền đạo đức dựa trên
nguyên tắc tự trị” của những “chủ thể
luân lý thật sự tự do”(2)
sợ cũng hơi vượt quá tầm
chăng?
Hay là, tốt nhất, có lẽ
ta chỉ nên hạn chế yêu cầu và
mục tiêu ở một mức độ thấp
hơn, “sát mặt đất” hơn?
Từ thói vượt đèn
đỏ đến bệnh xả rác đại
trà
Trần Hữu Quang (2)
cho rằng quan điểm duy
lợi là một trong hai
nguyên nhân chính dẫn đến sự
xuống cấp của đạo đức con
người và xã hội Việt Nam (VN)
hiện tại. Nguyên nhân kia là “sự
yếu kém của hệ thống luật pháp
và bộ máy nhà nước”.
Nếu lợi ích cá nhân,
nói cho cùng, là động
cơ tự nhiên cho hoạt động và
thậm chí cho cả tiến bộ của con
người, thì sự thiếu luật lệ
đúng là nguồn gốc của hỗn
loạn trong cuộc sống.
Thế nhưng, vấn đề của
VN đâu phải là
thiếu luật pháp hay định chế xã
hội?
Luật pháp chỉ có nghĩa
khi nó “sống”, tức
là được áp dụng đúng:
đúng lúc và đúng lẽ.
Đây có lẽ là
nhược điểm trầm trọng của
những người cầm quyền ở VN.
Xin thử bắt
đầu bằng việc quan sát: một điều
không lạ gì với những ai ra đường
là hiện tượng bất chấp đèn
đỏ, như ở quận 4 Sài Gòn
chẳng hạn.
Thoạt nhìn
thì như không có gì nghiêm
trọng, hành vi này thực chất mang đầy
cái xấu : ngoài hậu quả tai nạn
nguy hiểm và xuẩn ngốc có thể
xảy tới, nó còn bộc lộ một
tình trạng thiếu lành mạnh: sự
dửng dưng “ thông thường hóa”
( banalisation) thói quen chà đạp luật
lệ, ngày càng ngấm sâu trong tiềm
thức con người VN, nhất là đối
với thiếu nhi ngày ngày chứng kiến
kiểu sống sai trái của người lớn
; sự ly khai thường trực giữa môt
bên là phép tắc nền tảng cho tổ
chức xã hội “ chính thức”
và một bên là thói giả dối,
lừa đảo “thực tế” của
con người đáng lý phải là
chủ thể trách nhiệm trong tiến trình
văn minh hóa.
Khốn thay, đó
chỉ mới là một chi tiết nhỏ
trong bức tranh đời sống hỗn độn
của VN hiện nay.
Bức tranh đó
còn để lộ hằng hà sa số
“những điều trông thấy mà
đau đớn lòng”.
Bạn yêu sông Hương ư?
Xin hãy nhìn đây (3):
Huế thì đã vậy. Còn Sài
Gòn?
Xin
thử nhìn con kênh dưới đây
với chú thích của bài báo
liên quan (4) :
Kênh
Tàu Hủ vốn là dòng kênh huyết
mạch của Q.8 (TP.HCM), nhưng nó đã
bị chết từ lâu. Nguyên do là
dòng kênh bị ô nhiễm nặng, nước
đen ngòm, bốc mùi hôi thối nồng
nặc. Người dân cứ “vô tư”
trút rác thải sinh hoạt xuống dòng
kênh.
Một tờ báo khác cũng đưa tin tương tự (5) :
Nhiều kênh rạch tại TPHCM bị ô
nhiễm ở mức báo động. Nguyên
nhân: mỗi năm có hàng ngàn tấn
rác thải vô cơ và hữu cơ
được “tuồn” xuống những
kênh rạch một cách vô tội vạ.
Hậu quả không chỉ làm xấu mỹ
quan đô thị, phá vỡ môi trường
sinh thái còn ảnh hưởng rất lớn
đến sức khỏe người dân.
Kèm theo lời thú nhận của một
người trong cuộc :
“Trước giờ dân sống ven rạch
này đều đổ rác xuống lòng
kênh, vẫn biết đổ rác xuống
kênh sẽ gây hôi thối, ô nhiễm,
nhưng kiểu làm đâu vứt đó
của nhiều hộ dân ven rạch này đã
thành thói quen”, chị Trần
Thị Trang –
một hộ dân có nhà sống trên
con rạch –
cho biết một cách khá tự
nhiên (xin được gạch
dưới).
Cùng với lời kêu cứu bi ai, nhất
là từ tờ báo mang danh nghĩa « Cơ
quan của Đảng bộ ĐCS VN TP HCM » :
TPHCM đang trong thời điểm bùng phát
nhiều loại dịch bệnh: Tiêu chảy
cấp, sốt xuất huyết, thủy đậu…
Các dịch bệnh này thuộc nhóm
bệnh truyền nhiễm, do vậy người
dân sống tại các khu vực ven kênh
rạch bị ô nhiễm về nguồn nước,
rác thải... rất nhiều khả năng bị
nhiễm bệnh. Nên rất mong lãnh
đạo các cấp, chính quyền địa
phương cần đẩy mạnh các biện
pháp (xin được gạch
dưới ) phòng trừ luồng dịch.
Song song với đó, cần vạch ra những
giải pháp trước mắt và lâu
dài để cứu lấy những kênh,
rạch hiện đang trước nguy cơ bị
bức tử.
Thế còn biển, niềm hãnh diện về
thiên nhiên và tài nguyên đất
nước? Vẫn theo bài báo đã
nêu trên (4) thì
bãi
tắm
số 1 bãi biển Thuận An rác vương
vãi khắp nơi (xem hình), có nơi
rác được chất thành đống
hoặc vứt bừa bãi tràn lan trên
bãi cát. Mùi hôi nồng nặc bốc
ra từ rác khiến nhiều du khách không
khỏi khó chịu...
Nha Trang cũng chịu chung số phận, theo như
ghi nhận của một độc giả báo
Tuổi Trẻ (6):
Thành
phố Nha Trang là một trong những địa
danh thu hút nhiều khách du lịch tham quan.
Tuy nhiên, trên những con đường phố
biển hiện tượng vứt rác bừa
bãi vẫn khá phổ biến. Người
dân địa phương và khách qua
đường vô tư vứt rác (bọc
nilông, vỏ trái cây...) xuống lề
đường.
Đặc
biệt, đường Trần Hưng Đạo
có nhiều đống rác xuất hiện
thường xuyên hai bên đường.
Trong đó, đáng chú ý nhất
là đống rác gần ký túc
xá Trường cao đẳng Sư phạm
Nha Trang và Trường tiểu học Lộc
Thọ.
Còn
Hội An, một địa danh có « đẳng
cấp », cũng lại là nạn nhân
của ô nhiễm sơ đẳng được
mô tả như sau (7) :
Chùa
Cầu là điểm du lịch nổi tiếng
khi du khách đặt chân đến phố
cổ. Tuy nhiên, hiện nay nước dưới
chân cầu bị ô nhiễm nặng nề,
có màu đen, đọng trên mặt
nước là những mảng đen bốc
mùi hôi thối. Tình
trạng này đã kéo dài từ
lâu mà chưa được xử lý
triệt để (xin
được gạch dưới).
Anh hướng
dẫn viên Công ty lữ hành du lịch
Sài Gòn Tourist than thở: “Du khách
đến đây rất thích chụp ảnh,
nhưng họ không hài lòng vì ô
nhiễm quá, nhiều lần mình rất
khó xử khi dẫn du khách nước
ngoài đến đây vì cảnh du
khách vừa chụp ảnh vừa dùng tay
bịt mũi”.
Nếu Miền Trung đã như thế thì
Vũng Tàu có khá hơn không?
Mời bạn thử tự mình kiểm chứng
bằng cách đi theo đường Hạ
Long vào buổi chiều : trên hằng
cây số bệ đá bọc dài theo
lề đường lát toàn đá
hoa cương trông thật sang chạy dọc
bờ biển từ Bãi Dứa đến Bãi
Trước, thiên hạ ngồi « nhậu »
nghênh ngang rồi thản nhiên... đùn
hết rác rưới xuống biển, mặc
dù có sẵn nhiều thùng rác
được đặt suốt con đường
đẹp đẽ này với biết bao hảo
ý và công phu.
Vô cảm, bất trí hay vô tâm
Ở đây, ta sẽ không đi vào
phân tích về trình độ, ý
thức hay tìm hiểu đặc trưng xã
hội học của những kẻ làm quấy,
làm hại. Người ta thường đổ
cho « dân trí » thấp kém.
Nhưng « quan trí » thì sao?
Cũng như điển hình hỗn loạn
giao thông nói trên, tình trạng bừa
bãi xả rác vô tội vạ ở VN
cho thấy, trước hết, sự yếu kém
của lãnh đạo và sự nhu nhược
của quản lý, là những người
có trách nhiệm giải quyết vấn
đề.
Bởi vì ai cũng biết chỉ có trừng
phạt thật đích đáng mới làm
kẻ sai trái đổi thái độ,
trong khi chờ đợi hiệu quả lâu dài
của giáo dục, nếu có một nền
giáo dục đúng nghĩa (và biết
giáo dục từ mẫu giáo !). Sự
kiện dân chúng VN răm rắp đội
nón bảo hiểm ngay từ ngày đầu
tiên áp dụng luật mới là một
bằng chứng hùng hồn : không
có « ngoại lệ VN », cứ
phạt thật gắt gao ắt sẽ bớt kẻ
vi phạm, ngay cả trên đất nước
này.
Đâu cần gì phải vắt óc
nghĩ thêm ra luật lệ mới để
khống chế kẻ gian hay xoay chuyển tình
thế. Chỉ việc áp dụng nguyên tắc
cơ bản về Quản lý chất lượng
ISO 9000 : nói điều mình làm và
làm điều mình nói. Đó là
cái gốc để tạo « niềm
tin » nơi khách hàng mà bất
cứ doanh nghiệp nào, nếu đã quan
tâm làm ăn đều biết.
Vậy mà các quan chức VN vẫn im lìm
kỳ lạ. Họ có đủ thông tin
để biết nhiều nước đã
đi trước trong lãnh vực giữ sạch
không gian sống. Đầu tiên là đàn
anhTrung Quốc của họ (ít ra đã
bài trừ được nạn khạc nhổ,
mà « biểu tượng » là
cái ống nhổ đã từng đi vào
lịch sử qua tấm hình Mao tiếp Nixon
năm 1972 với « phụ tùng »
này). Hoặc đảo quốc « cố
vấn » Singapour là nơi họ đã
chịu khó bỏ công quỹ để đi
tham quan « nghiên cứu học tập »
(8).
Vậy nếu lãnh đạo không có
hành động cụ thể để làm
thay đổi nhanh chóng và hiệu quả
bộ mặt xứ sở, chắc chắn không
phải vì họ thiếu dữ liệu. Thời
sự gần đây về thảm họa khai
thác bauxite Tây Nguyên đã rọi
đủ ánh sáng lên các ngõ
ngách « tâm hồn » kẻ
trong cuộc, nếu ta không lạm dụng từ
cao đẹp này.
« Thả nổi » những thứ
sai trái, xấu xa, mất vệ sinh, tràn
ngập đất nước này, để
nó thành bãi rác « vĩ
mô » phải chăng là sự bộc
lộ tự nhiên của một căn bệnh
nội tạng, bắt nguồn từ những bộ
óc « vi mô » không thiết
tha gì đến việc giữ gìn sạch
sẽ, phép tắc, kỷ cương ?
Làm sao vực dậy cái chung
Ngăn chận bàn tay tội lỗi, gìn
giữ di sản tổ tiên, bảo vệ những
gì còn có thể, là trách
nhiệm của mỗi người. Việc đó
đòi hỏi một sức mạnh của
chủ thể và dựa vào nội lực
đích thực của cộng đồng. Khi
cái chung xiêu vẹo, rữa nát, thì
cái riêng không thể tồn tại. Bộ
mặt xã hội VN, do đó cũng chính
là tấm gương – không chóng
thì chầy – dội trả lại cái
« tôi » đã, đang hoặc
sẽ là của mỗi cá nhân. Vì
thế, không thể ngoảnh mặt làm
ngơ trước những chuyện trái lạ
quanh ta. Trong hoàn cảnh đó, lắng
nghe người khác nhận xét về cộng
đồng mình là điều kiện tiên
quyết để đi đến tự hoàn
thiện.
Ở một một thời điểm nào đó
trong lịch sử đau thương rất gần
đây, ta quen nghe toàn những lời khen
dành cho dân tộc. Bây giờ, chạm
trán với thực tế phũ phàng trên
đường phố hay tại những điểm
đón khách du lịch, ta không khỏi
bàng hoàng tự hỏi đâu là
cái mức «tối thiểu » của
đất nước và con người VN.
Một số ý kiến không mấy gì
dễ chịu được phổ biến trên
mạng gần đây (9)
không hẳn chỉ phản ảnh toàn
chuyện cay cú cá nhân hay giới hạn
đầu óc quá hiển nhiên của
tác giả: nó gióng một hồi
chuông báo động về sự mất
giá của « thương hiệu »
VN, hậu quả tất yếu của quá
trình tầm thường hóa (mediocrisation)
cuả một dân tộc đang ngày càng
tụt dốc mà một trong những thể
hiện sơ cấp ở bề mặt là nạn
lạm phát chửi thề và bằng giả
chẳng hạn (cũng như có lẽ nên
kể thêm cả bệnh kê học vị
trước tên gọi !).
Cái xấu xí trên diện mạo một
tập thể « bát nháo »
như thế, đương nhiên, không thể tương thích (compatible) với bất cứ
một dự án thăng hoa cá nhân nào.
Vì thế, góp phần tích cực vào
việc chăm sóc chữa trị cho hội
chứng suy vong đang lan truyền trên cơ
thể quê hương cũng là công
việc của từng người và là
tiền đề cho mọi nỗ lực thắp
sáng niềm tin.
Đã qua rồi, những cảm nhận đầy
tin yêu của đứa con xa trở về dẵm
chân trên mảnh đất quê nghèo
hãy còn xanh sạch, còn gợi được
bao ý đẹp tình sâu (10).
Đã xa rồi, những lối trình bày
quá « rào đón trước
sau », quá nhẹ tay mổ xẻ những
điều mình còn phải học người
(11).
Tình trạng xuống cấp quá tệ hại
của đất nước đòi hỏi
một đột biến trong cách suy nghĩ
và thể hiện. Cường độ của
sự trăn trở tỉ lệ thuận với
mức trầm trọng của hiểm nguy. Chính
nó sẽ làm bật dậy sức mạnh
tiềm tàng của dân tộc. Những
thông điệp sẽ ngày càng bức
phá, xuyên thấu và truyền xa. Những
tấm lòng bốc lửa qua từng câu
chữ (12)
sẽ là ngọn hỏa châu rọi sáng
thao thức cho bao người.
Lúc này là thời điểm của
yêu cầu bức thiết cho cách tân
và sáng tạo, như Trần Văn Thọ
đã đề khởi: « Đã
qua rồi một thời đổi mới »
(13) !
Sự nghèo nàn, khô héo của văn
học mấy năm nay (14),
phải chăng cũng chỉ là phản ảnh
sự bí lối, trầm cảm của hồn
Việt ?
Để vực dậy, xin được chia sẻ
với Bùi Văn Nam Sơn (1) về
một cộng đồng dân tộc « không
để mình ngã quỵ trước sự
mất lòng tin, nhờ biết dựa vào
sức mạnh phòng vệ của một xã
hội dân sự phát triển ».
Và, cùng nhau, « ta nhớ đến
câu nói nổi tiếng của thi hào
Goethe : phải tự tin mới có thể
tin vào người khác ! ».
Bùi Đức Hào
(1)
Bùi Văn Nam Sơn, Tin và đáng tin, Thời báo Kinh Tế
SàiGòn, số 5&6, 22/1/2009, trang 7.
(2)
Trần Hữu Quang, Sự tin cậy, đạo đức và luật pháp,
tập san đã dẫn, trang 11.
(10)
Trương Quang, Mùa đông phương Tây và nỗi lòng phương Đông,
NXB Trẻ,2006
(11)
Trần Ngọc Châu, Vị đắng những chuyến đi xa, NXB
Trẻ, 2006
(13)
Trần Văn Thọ, Đã qua rồi một thời đổi mới ,
tập san đã dẫn, trang 29
(14)
Vương Trí Nhàn, Đọc lại Khổng Tử để hiểu con người hiện đại,
tập san đã dẫn, trang 18
|