Ảnh: reychem.com |
Từ
tháng 11/2008, sau khi dự án “Tổ hợp bô-xít-nhôm Lâm Đồng” tại Tân Rai
được khởi công ngày 26/7/2008, và tiếp đó dự án “khai thác bô-xít sản
xuất alumina Nhân Cơ” (Đắc-Nông) sẽ được khởi công trong quý I-2009, và
những thông tin về dự kiến hợp tác đầu tư với nước ngoài khai thác
bô-xít quy mô lớn ở Tây Nguyên kèm theo bao tiêu sản phẩm từ 2007 đến
2015 có xét đến 2025, có rất nhiều bài báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng bày tỏ sự lo ngại trước quyết định khai thác bô-xít ở Tây
Nguyên, nhất là vào thời điểm hiện nay với sản phẩm sơ chế là alumina,
đặt dấu hỏi về hiệu quả kinh tế, cảnh báo về công nghệ và hậu quả
nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên và xã hội.
Sau
nhiều tháng chờ đợi, một cuộc hội thảo khoa học về khai thác quặng
bô-xít để sản xuất alumina ở Tây Nguyên sẽ được tổ chức ngày mai,
9/4/2009 tại Hà Nội do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì với thành
phần tham dự được mời gồm đại diện các Bộ ngành và các địa phương có
liên quan, các nhà khoa học và hoạt động xã hội. Dư
luận mong rằng hội thảo sẽ là một sự phản biện được lắng nghe, một cuộc
đối thoại xây dựng vì sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước và của
vùng đất Tây Nguyên. Nhằm mục đích đó, bài viết này góp một số ý về ba
nhóm vấn đề và đề xuất ba kiến nghị. Trước tiên là về hiệu quả kinh tế.
Tổng Công ty Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) chắc chắn đã có những tính
toán của mình để thuyết minh là hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ có hiệu
quả kinh tế tính cho suốt thời gian tồn tại của chúng, ước tính là 50
năm. Vấn
đề là các dự án này (và quy hoạch khai thác bô-xít nói chung) đã được
tính toán trong thời gian mà nhu cầu nhôm, alumina của thế giới và khu
vực đang lên cao, trong khi đó giá alumina trên thị trường thế giới
hiện nay và trong thời gian trước mắt xuống rất thấp và chưa ai nói
được là còn sẽ kéo dài bao lâu trong cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu
hiện nay. Vì
vậy nhà đầu tư phải xem xét lại tính toán về hiệu quả kinh tế của các
dự án hiện nay (và trong quy hoạch) phù hợp với tình hình mới không
thuận lợi như lúc lập luận chứng ban đầu. Chalco,
một tập đoàn lớn hàng đầu về nhôm của Trung Quốc, cho hay sẽ cắt chi
tiêu tới 34%, tương đương 1,9 tỷ đôla, trong năm 2009 vì nhu cầu
nhôm thế giới giảm sút mạnh. La Kiến Xuyên, chủ tịch mới của tập
đoàn, thông báo ngày 30/3/2009 vừa qua, tập đoàn này "sẽ siết
chặt các hợp đồng mua và sáp nhập tại các thị trường nội
địa và quốc tế, đồng thời hoãn các dự án kế hoạch để đối
phó với khó khăn hiện thời".
Chắc TKV đã nhận được
thông tin này và đã liên hệ đến mình và đến việc hợp tác đầu tư, để
không vì khó khăn mà giãn tiến độ hoặc “treo” các dự án, và nhất là hạ
thấp trình độ công nghệ, hy sinh hoặc “rút gọn” khâu xử lý chất thải
bùn đỏ, thậm chí đổ bừa chất thải chưa xử lý ra môi trường như đã bắt
gặp trong thời gian qua. Trong
quy hoạch khai thác bô-xít giai đoạn 2007-2015 có xét đến 2025, có việc
đầu tư một tuyến đường sắt dài khoảng 270 km với chênh lệch độ cao 700
mét, đi qua một vùng địa hình khá phức tạp, để đưa sản phẩm alumina từ
Tây Nguyên về xuất khẩu tại cảng Kê Gà (Bình Thuận).
Điều này
nhắc chúng ta nhớ rằng chỉ số ICOR của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
khá cao, phản ánh hiệu quả đầu tư thấp trong thời gian qua. Chính vì
vậy, nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư phải là một mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát, nhất là trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Thứ hai là về môi trường. Hiệu quả kinh tế là quan trọng, nhưng tác động lên môi trường còn quan trọng hơn nhiều, cho hôm nay và cho mai sau. Theo
TKV, do cấu trúc địa chất, bô-xit Tây Nguyên có diện phân bố rộng,
thường ở trên sườn và đỉnh đồi, chiều dày các vỉa quặng trung bình
3-5m, nằm dưới lớp đất phủ với khoảng cách trung bình 0-2m. Các
dự án sẽ tận dụng các thung lũng trên cùng một địa bàn, cách nhau không
xa, cho hai mục đích rất khác nhau, nằm ở hai đầu của quy trình sản
xuất alumina: làm hồ tích nước trong mùa mưa phục vụ tuyển quặng và sản
xuất alumina, và làm hồ chứa bùn đỏ, chất thải rất nguy hiểm từ quy
trình sản xuất này. Viêc
tận dụng các thung lũng như đã nói không an toàn chút nào bởi lẽ bùn đỏ
chứa một dung dịch kiềm đi kèm có tính ăn mòn mạnh, có thể thẩm thấu
gây tác hại cho đất xung quanh và làm ô nhiễm nguồn nước, và nhất là
vào mùa mưa, khi lượng nước mưa lớn [3] tích tụ ở các hồ bùn đỏ có thể tràn ra ngoài hoặc làm vỡ đập. Nói
về nguồn nước cho sản xuất alumina tại hai nhà máy, TKV cho biết nhà
thầu sẽ sử dụng 100% nước mặt, không sử dụng nguồn nước ngầm, bằng cách
đắp đập tạo hồ chứa và một phần điều hoà nước từ các đập hồ thuỷ điện
của vùng trong mùa khô .
Xin
lưu ý Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam rằng nước trong các đập và hồ
thủy điện đều đã được quy hoạch để sử dụng đa mục tiêu ở hạ lưu cho dân
sinh, nông nghiệp, thủy sản, … vì ở đó cũng rất cần nước vào mùa kiệt! Báo
cáo của các nhà thầu bảo đảm rằng việc xử lý ô nhiễm, chất thải bùn đỏ,
sẽ được làm triệt để nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, và
với phương pháp khai thác theo trình tự cuốn chiếu, “công tác hoàn thổ, phục hồi không gian sẽ được hoàn nguyên ngay sau khi khai thác xong từng khu vực”
Trong
khi đó tỉ lệ dành cho việc xử lý chất thải, đặc biệt chất thải bùn đỏ,
lại chỉ chiếm 5,4 – 5,6% tổng vốn đầu tư của nhà máy trong mỗi dự án.
Chính
vì vậy và mặc dù việc xử lý chất thải bùn đỏ ở các nước được dẫn chứng
như là an toàn (mà theo chúng tôi biết không hẳn là như vậy), chúng tôi
vẫn cho rằng môi trường là một vấn đề chưa thể yên tâm. Gần
đây thôi, Trung Quốc đã ra lệnh đóng cửa 100 mỏ bô-xít vì gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng. Mỏ bô-xit Nhữ An đã bị đóng cửa sau một năm hoạt
động vì nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề, cùng nhiều chứng bệnh lạ xuất
hiện. Nước
này cũng ra quy định các doanh nghiệp khai thác bôxit chính quy phải
trả lại hiện trạng đất đai như ban đầu sau 4 năm khai thác, nếu không
đáp ứng tiêu chuẩn này sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Thứ ba là về vấn đề xã hội.
Nhiều bài đã phân tích sâu về tác động đến văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm rằng vấn đề xã hội gắn với vấn
đề môi trường và môi trường là một điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự
ổn định cuộc sống và cho sức khỏe của người dân trên địa bàn và các địa
bàn lân cận. Các báo cáo cho biết “tổng
diện tích chiếm đất của toàn bộ dự án alumina Nhân Cơ khoảng 3.570 ha,
trong đó phần mỏ khoảng 2.620 ha; các công trình đập, hồ chứa nước
khoảng 500 ha; phần nhà máy sản xuất alumina khoảng 150 ha; các dự án
tái định canh, định cư khoảng 300 ha”. Có thể khẳng định rằng tác động lên xã hội của dự án rộng hơn khoảng không gian này nhiều. TKV
cho biết con em của Lâm Đồng và Đắc Nông đã được gửi đi đào tạo để phục
vụ hai nhà máy. Hoạt động của các nhà máy sẽ kéo theo sự phát triển các
ngành kinh tế khác. Kinh tế thuần nông lâm sẽ chuyển dần sang kinh tế
đa ngành nghề. Thu ngân sách và thu nhập của của người dân của hai tỉnh
Lâm Đồng và Đắc Nông sẽ tăng.
Nếu được như vậy thì rất tốt và
đáng mừng. Thế nhưng Greg Zelder và Sebastian Africano, Giáo sư về
Chủng tộc, Đói nghèo, và Môi trường Raquel R. Pinderhughes, Đại học
Bang San Francisco đã chỉ ra rằng khai thác bô-xít hầu hết đã làm gia
tăng đói nghèo cho người dân bản địa. Yếu tố con người đã được xem trọng đúng mức chưa trong cả hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ? Dự
án Nhân Cơ chỉ cho con số 300 ha dành cho tái định canh, định cư. Nhưng
số người tái định cư là bao nhiêu, họ là ai, cuộc sống vật chất và tinh
thần của họ như thế nào, nguyện vọng của họ ra sao, … không thấy nói. Công
tác tái định cư của các công trình Sơn La, Dung Quất và xa hơn là Hòa
Bình cho chúng ta nhiều bài học quý mà trước tiên là cần tiếp cận vấn
đề xã hội sâu sắc hơn, nhân văn hơn, đậm đà tình dân tộc, nghĩa đồng
bào hơn. Từ những ý kiến trên đây, xin đề xuất ba kiến nghị:
1. Nếu không thể dừng, lấy dự án Tân Rai làm dự án điểm. Tập
trung chỉ đạo và yêu cầu tập đoàn thầu theo phương thức EPC thực hiện
dự án đúng các cam kết, đặc biệt việc xử lý an toàn nhất chất thải bùn
đỏ. Giám sát việc thực hiện. Làm cho tốt công tác tái định cư. Tổng kết
kinh nghiệm. 2. Tập
trung xây dựng cho xong dự án quy hoạch tổng thể khai thác bô-xit Tây
Nguyên có báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) song hành trước
khi triển khai bất kỳ dự án nào mới. 3. Khi dự án quy hoạch hoàn thành, nếu một trong năm tiêu chí (tổng vốn đầu tư; tác động lên môi trường;
số dân di dời tái định cư; đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối
với quốc gia về quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có giá trị
đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa; đòi hỏi phải áp dụng cơ chế,
chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định) chạm giới hạn cho
phép thì Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư đúng
theo Nghị quyết 66/2006/QH11 của Quốc hội. Khai
thác bô-xit Tây Nguyên có ý nghĩa vô cùng quan trọng về nhiều mặt, cần
được tiến hành từng bước chắc chắn. Quặng vẫn nằm đó trong lòng đất và
chờ đợi được khai thác với công nghệ sạch và tiên tiến, trong một quy
hoạch chặt chẽ và toàn diện. Chỉ có như vậy nó mới góp phần vào sự phát
triển đất nước một cách bền vững. - Giáo sư. Nguyễn Ngọc Trân
| Khai thác bô - xít: Câu chuyện Ấn Độ và Haiti Câu chuyện Ấn Độ
Tại
Ấn Độ “vấn đề” các nền văn hoá bản địa ở các vùng đất giàu bauxite đã
trở thành điểm bạo loạn nóng bỏng giữa dân cư và chính phủ. Năm
1998 công ty Norsk-Hydro của Na Uy đã tìm thấy bauxite ở bang Orissa.
Vấn đề của công ty là 2100 gia đình ở 24 làng đã cản trở. Trong
32 triệu dân của bang Orissa, có bảy triệu thổ dân tập trung ở các vùng
giàu quặng là các hạt Raigada, Koraput và Kalahandi nơi họ chiếm đến
80% dân cư. Chỉ
riêng ở Orissa có gần 64 triệu ha đất trồng trọt và được chiếm giữ một
thời, hiện đang được khai mỏ và ước tính có 50.000 người tị nạn môi
trường. Dân bộ tộc và thổ dân ở Ấn Độ chỉ chiếm 8% dân số nhưng lại chiếm đến hơn 40% dân bị di dời. Ở
Ấn Độ các bộ lạc, chứ không phải chính phủ, kiểm soát đất bộ lạc. Điều
này có nghĩa là các bộ lạc phải quyết định liệu các công ty khai khoáng
có thể được phép khai mỏ hay không. Một nhóm môi trường trong vùng đã tổ chức một cuộc điều tra cho thấy 96% dân cư trong hạt chống lại dự án bauxite. Cảnh
sát vùng đã dùng vũ khí chống lại người dân địa phương, hiển nhiên cảnh
sát hoạt động vì lợi ích của công ty, và đã bắt hầu hết các chủ đất ít
nhất một lần và ép buộc họ ký bán đất cho công ty. Tháng
12/ 2000 đã có các cuộc bạo loạn chống lại công ty và các kế hoạch của
họ để khai khoáng ở trong vùng, trong đó cảnh sát đã giết chết 2 người. Các
tổ chức nhân quyền tin rằng Norsk-Hydro đã đồng loã trong việc giết
người bởi vì cảnh sát đã ép dân địa phương ký bán đất, cơ bản họ đã trở
thành tổ chức đánh thuê không chính thức của công ty. Nếu công ty đồng loã, nó vi phạm các nguyên tắc một và hai của Hiệp ước Toàn cầu (Global Compact) của Liên Hiệp Quốc. Nguyên
tắc một của Hiệp ước nói rằng các công ty đồng ý “hỗ trợ và tôn trọng
sự bảo vệ các quyền con người quốc tế trong phạm vi ảnh hưởng của họ”.
Nguyên
tắc hai đòi hỏi các công ty “đảm bảo các công ty của riêng mình không
đồng loã trong các vụ lạm dụng các quyền con người”. Những
cáo buộc này chỉ ra vấn đề lớn hơn về các công ty xuyên quốc gia lớn
tương tác ra sao với dân địa phương trong đòi hỏi của chúng đối với
nguồn lực tự nhiên và nguyên liệu.
Các cộng đồng địa phương
không được coi là cần thiết nội tại cho đất nước – thay vào đó lại là
sự bỏ rơi dân địa phương không cho họ tận dụng các nguồn lực mà họ sở
hữu. Bởi
vì sự sao nhãng nhận thức này, các nhà đầu tư nước ngoài coi tình hình
như tình huống do nghĩa vụ của họ đối với nền kinh tế toàn cầu (chẳng
nhắc tới ví tiền của họ) mà họ khai thác các vùng này.
Trong
nhiều trường hợp lời cam kết với các nền văn hoá bản địa không được cả
công ty lẫn chính phủ tính đến, để người ta phải lưu ý đến các mối
tương tác giữa các chính phủ và các công ty tương ứng. Câu chuyện Haiti
Tiếp sau việc khám phá ra Bauxite năm 1943 ở Jamaica, các công ty đã ngó tới khả năng có bauxite tại các đảo khác ở Mỹ Latin.
Hè năm đó công ty Reynolds Metals đã tìm thấy bauxite in Haiti và tiến hành ký hợp đồng tô nhượng với chính phủ Haiti.
Giống
hầu hết các hợp đồng giữa các công ty siêu quốc gia và các chính phủ
các nước chậm phát triển, hợp đồng này rất thiên vị cho công ty. Hợp
đồng cho Reynolds “độc quyền ưu tiên tiến hành thăm dò và khai thác
quặng bauxite và tất cả các quặng khác chứa hay có thể chứa nhôm,” với
hầu như toàn bộ diện tích Haiti được quy định.
Thoả thuận kéo
dài 60 năm sau khi ký, buộc chính phủ chấp nhận các điều khoản ở giai
đoạn đầu của quá trình mặc cả mà có thể không còn thích hợp trong tương
lai. Yếu
tố chính ở đằng sau sự chấp nhận các điều kiện này là sự thực rằng
chính phủ Hoa Kỳ đã hỗ trợ cho đàm phán của Reynolds vì 2 lý do chủ
yếu: Cầu
về nhôm đã tăng do Chiến tranh Thế giới II và, khi đó, chính phủ Mỹ đã
thử phá thế độc quyền của Alcoa trong công nghiệp nhôm.
Cùng với cú “thúc” của chính phủ Hoa Kỳ, đã có các lý do khác để chính phủ Haiti tin rằng hợp đồng là tốt cho đất nước: Hợp
đồng có hứa về việc làm (cho dù công ty chỉ thuê công nhân không có kỹ
năng và không có hứa hẹn gì về đào tạo các vị trí quản lý hay hành
chính). Haiti cũng nhận được một khoản royalty (tiền thuê mỏ) gắn với sản xuất bauxite – khi đó royalty là 30,5 cent/tấn. Năm 1963 hợp đồng được đàm phán lại và royalty thực sự bị giảm xuống 20 cent/tấn! Chính phủ cũng đã tin rằng công ty sẽ thêm vào cho cơ sở hạ tầng của đất nước. Tất
cả cái mà đất nước nhận được dưới dạng hạ tầng là một đoạn đường dài 8
dặm chỉ để chuyên chở alumina đã tinh luyện sang Hoa Kỳ - đường này ít
có tác động đến toàn nền kinh tế. Công ty cũng đã xây 1 nhà máy điện, cơ sở hạ tầng nước, và 1 bệnh viện chỉ để công ty và nhân viên của nó sử dụng. Cùng
với những “giám sát” này của chính phủ, đối với dân chúng cái lớn nhất
mà chính phủ đã làm, là đi thoả thuận giúp ngăn chặn đình công, tạo ra
một liên minh gây rối loạn để chặn ngay cả các hình thức sơ đẳng nhất
của sự trao quyền cho lao động. Cần lưu ý rằng số lao động do Reynolds sử dụng là nhỏ (khoảng 0,5%) so với phần còn lại của lực lượng lao động 45.000 người. Loại
thảo thuận này củng cố khái niệm về đồng loã xảy ra với cách cư xử của
chính phủ, đặc biệt các chính phủ ở các nước đang phát triển, phụ thuộc
vào công nghiệp hoá, và các công ty xuyên quốc gia không có trách nhiệm
giải trình nào đối với công dân của các nước nơi chúng khai thác tài
nguyên của họ.
Trích từ: "Bauxite and Aluminium: From A to Z”, của các tác giả Greg Zelder, Sebastian African, Raquel R. Pinderhughes, State University at San Fransisco, California, 2003 |
|