Trần Viết Ðại Hưng
Ngây thơ là một đặc tính của tuổi thơ. Đầu óc tuổi thơ luôn bao gồm
những gì hồn nhiên, trong sáng. Đối với tuổi thơ, không ai đặt vấn đề
bắt mấy em phải dùng lý trí để suy xét một vấn đề. Đầu óc các em là một
tờ giấy trắng, chỉ biết thu thập những dữ kiện mà không có sự phán đoán
chính xác . Rồi theo thời gian, tuổi thơ lớn lên thành người lớn từng
trải. Sự phán đoán ngày càng được hình thành dựa trên kiến thức học hỏi
và kinh nghiệm đời sống. Sự khôn ngoan không phải một sớm một chiều có
được mà phải tích lũy và sàng lọc qua thời gian. Thông thường một người
có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng
suốt hơn một người ít học hay vô học. Nhưng trong môi trường chính trị,
một môi trường chứa đầy thủ đoạn, dối trá, bịp bợm, đôi khi có những
người trí thức vẫn có óc suy luận ngây thơ như một con nai tơ để rội bị
lường gạt. Lý trí đầu óc của họ đã bị trái tim yêu thương lấn át để rồi
sau đó phải sống những chuỗi ngày ân hận, ray rứt và hối tiếc. Cần phải
quân bình yêu thương và lý trí mới mong có sự chọn lựa đúng đắn và
chính xác trong lãnh vực chính trị vốn là một nơi chốn điên đảo có
nhiều gió tanh mưa máu mà khả năng trí thức cao chưa đủ để có sự nhận
định trung thực về những diễn tiến chính trị phức tạp và rối rắm.
Nhạc sĩ Tô Hải trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc:
"Tớ đi bày tỏ lòng yêu nước"
Mới đây nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ở Virginia có cho xuất bản cuốn
sách “Hồi ký của một thằng hèn“ của nhạc sĩ Tô Hải. Trong lời tựa đề
cho cuốn sách, nhà văn Lê phú Khải có kể chuyện về sự thú nhận sai lầm
cuối đời của Bác sĩ Nguyễn khắc Viện như sau:
“Đọc” Hồi ký của một thằng hèn” của nhạc sĩ Tô Hải, tôi bất giác nhớ
đến Bác sĩ Nguyễn khắc Viện. Ông là một trí thức Việt kiều, rất hăng
hái hoạt động trong phong trào Mác-xít, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp,
đã tình nguyện về nước để tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Hăng hái là thế, mà ỡ tuổi ngoài tám mươi, khi làm bản tổng kết
đời mình, ông đã phải thốt lên “Đời
tôi là đời của một thằng ngây thơ. Trong hai chữ “thơ“ và chữ “ngây“
tôi xin giữ lại cho mình cái chữ “thơ“ vì đã đi theo kháng chiến, còn
cái chữ “ngây” để chỉ cái sự đi theo chủ nghĩa xã hội thì xin ..vứt nó
đi!”
Nguyễn khắc Viện tự đánh giá như thế là khách quan. Cần phải tách bạch
hai chuyện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cái gọi là xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa. Một đàng là hành động theo lương tâm, một đàng
là hành động theo người khác khuyến dụ, và cả ép buộc nữa.
Tô Hải và Nguyễn khắc Viện: hai con người, hai số phận, cả hai đều được
nhà nước tặng nhiều huân chương “cao quý“, nhưng cái tương đồng giữa
hai người là ở chỗ họ đều thiết tha yêu nước, nhưng không thể yêu xã
hội chủ nghĩa“.
Ai cũng biết Bác sĩ Nguyễn khắc Viện ngoài bằng cấp của một bác sĩ
chuyên nghiệp, ông còn là một nhà ngữ học tài ba. Ông đã dịch Truyện
Kiều của Nguyễn Du ra Pháp văn. Và vào cuối đời ông được chính phủ Pháp
trao giải thưởng về những công trình văn hóa viết bằng tiếng Pháp của
ông. Một người trí thức hàng đầu như thế mà cuối đời cũng thú nhận là
đã ngây thơ khi đi theo chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa có nội dung rất
đẹp trên giấy trắng mực đen nhưng là một địa ngục kinh hoàng khi xây
dựng. Con tim ông sôi nổi nồng nàn thiết tha, quá mê mệt cái thiên
đường xã hội chủ nghĩa mà bộ óc trí thức của ông không kềm chế và kiểm
soát nổi để rồi khi về già trở nên hối tiếc ân hận vì mình đã bỏ công
sức ra xây dựng một chủ nghĩa không tưởng. Dĩ nhiên Bác sĩ Nguyễn khắc
Viện không phải là người trí thức duy nhất bé cái lầm về chủ nghĩa xã
hội, còn có biết bao nhiêu trí thức phương Tây và Việt Nam cũng sai lầm
như ông khi coi chủ nghĩa xã hội là con đường đi đến sự toàn thiện toàn
mỹ cho xã hội loài người. Dù sao cuối đời ông cũng có đủ cái lương
thiện trí thức để nói ra cái ngây thơ dại dột của mình. Hy vọng lỗi lầm
tự bạch của ông sẽ giúp nhiều người khác tránh khỏi vết xe đổ mà ông đã
đi qua. Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần, Nguyễn khắc Viện thấy ra cái
dại của mình vào lứa tuổi ngoài tám mươi. Dù có trễ tràng nhưng còn
nhìn ra còn hơn không. Biết bao nhiêu trí thức khác còn mơ màng ảo
tưởng về cái chủ nghĩa xã hội phản khoa học và phi nhân bản này.
Một người trí thức thứ hai hàng đầu của miền Nam cũng mang bệnh” ngây
thơ “ về chính trị là Học giả Nguyễn hiến Lê. Ông Lê đúng là một trí
thức tháp ngà, suốt ngày đóng cửa để đọc sách và viết sách. Ông tự hào
là người còn viết nhiều còn hơn Học giả Trương vĩnh Ký. Cả đời ông ,
ông viết khoảng chừng 30000 trang sách. Ông viết đủ mọi thể loại, đề
tài như văn học, chính trị, toán học, học làm người v..v. Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, những diễn tiến chính trị tàn nhẫn đã làm ông sững
sốt như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt. Những suy nghĩ về diễn tiến
chính trị ở miền Nam của ông coi như sai bét. Ông viết hồi ký nói lên
sự suy nghĩ non dại của mình trước những sự kiện phũ phàng của cuộc
đời. Kiến thức ông bao la nhưng ông thiếu một yếu tố quan trọng làm
nhận định thời cuộc của ông sai bét vì ông không có kinh nghiệm thực tế
. Muốn có những nhận định chính xác về thời cuộc thì kiến thức chưa đủ
mà cần bổ túc thêm kinh nghiệm thực tế thì mới mong có những phán đoán
chính xác. Hồi ký Nguyễn hiến Lê nói rõ diễn tiến sự suy luận của ông
về tình hình chính trị miền Nam như sau :
“..Khi hội nghị Paris kết
thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba
chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc
gia. Tôi không đọc được toàn văn Hiệp ước đó, chỉ do báo chí mà biết
đại khái rằng Bắc Việt, Mỹ, Mặt Trận Giải Phóng và Chính phủ dân chủ
miền Nam: người của Mặt trận, người của chính phủ miền Nam thỏa thuận
với nhau sẽ có ba thành phần ở miền Nam: người của Mặt trận, người của
chính phủ miền Nam, và một số người ở trong nước và ngoài nước, không
theo phe nào (tức thành phần thứ ba) ở giữa dung hòa hai thành phần
trên.
Tôi đoán công việc đó khó khăn nhưng có thể thực hiện được nếu những
người trong sạch, có tư cách, nhiệt tâm ở miền Nam và ở ngoại quốc về
chịu ra đảm đương việc nước, và nếu Mặt trận vẫn tỏ ra vẻ ôn hòa như họ
thường tuyên bố. Như vậy, sau bốn năm năm, miền Nam ổn định rồi, có thể
thống nhất quốc gia được, Bắc Nam dung hòa nhau, Nam hồng thêm lên một
chút, để cùng nhau kiến thiết mà tạo hạnh phúc cho dân. Riêng tôi, tôi
sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy
cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con
người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây
thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó.
Ngày 30-4-75- VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Nhưng hiệp định Paris vừa mới ký xong – tất nhiên có chữ ký của Nga,
Trung Hoa và một số nước khác như Pháp, Anh..- hai bên trao đổi tù binh
với nhau xong, Mỹ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế
là hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ. Tôi không hiểu có một sự
thỏa thuận ngầm nào giữa các cường quốc nắm vận mạng của Việt Nam
không, có những uẩn khúc, những bí mật nào không. Theo luật quốc tế,
phải 50 năm sau, những bí mật đó mới được công bố, lúc đó những kẻ chịu
trách nhiệm chết hết rồi.
Một bên (Bắc) mới thắng Mỹ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương
hăng; một bên (Nam)bị Mỹ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi,
vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu.
Quân Bắc tiến tới đâu, dân chúng một phần sợ những vụ chém giết, chôn
sống như ở Huế tết Mậu Thân, dắt díu, bồng bế nhau bỏ chạy; một phần
ghét Mỹ, ghét chính phủ Thiệu, theo quân đội giải phóng, cho nên cuộc
tiến quân của Bắc dễ như chẻ tre, chỉ trong ít tháng chiếm trọn miền
cao nguyên và miền Trung, gần tới Biên Hòa. Tổng thống Dương văn Minh
biết chống cũng vô ích, xin hai bên ngừng chiến để đỡ chết dân và chính
quyền miền Nam chờ đợi quân đội miền Bắc vào Sàigòn để giao lại quyền
hành, nói tóm lại là xin đầu hàng vô điều kiện; và ngay 12 giờ trưa
ngày 30-4 tướng Trần văn Trà của Mặt trận ngồi xe thiết giáp tiến vào
dinh Độc Lập. Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kỹ
thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao trạch Đông năm 1949 (cũng
chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và
cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ
nước để thoát thân như Nguyễn văn Thiệu. Đại sứ Mỹ phải nhục nhã cuốn
cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer Đỏ vào Nam Vang 13 ngày trước Cộng
sản Bắc Việt vào Sài gòn.
Từ ngày 20-4-75 Sài Gòn rất xôn xao. Một ông bạn thân của tôi 65 tuổi,
ở gần nhà tôi, đương đau mà gia đình cũng “bốc“ lên phi cơ để tỵ nạn,
mới tới Manila thì chết, phải chôn ở đó. Một cô em ruột nhà tôi, cô
Trịnh thị Mộng Đơn cũng dắt con lên phi cơ qua với chồng bên Mỹ.
Rồi chính cô em út của tôi, Nguyễn thị Mùi, gần 60 tuổi, cũng theo gia
đình bên chồng qua Mỹ; vợ chồng tôi giữ lại ở với chúng tôi, cô không
chịu. Trong số ba người em, tôi mến cô nhất, mà cô cũng quý tôi. Cô làm
dâu họ Tô ở Hà Nội, có ba người con đều vào hạng học giỏi. Con gái lớn,
Tô lệ Hằng, đậu tiến sĩ vật lý, tính tình hợp vói tôi, hiện ở Pháp,
giúp đỡ tôi được nhiều việc, vợ chồng tôi coi ba cháu đó như con. Cô đi
rồi, ở Sài gòn tôi không còn ai ruột thịt cả.
Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có
gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài gòn thì Nam
Bắc cũng thương thuyết với nhau- trước Bắc chỉ đòi Mỹ rút đi, Thiệu rút
đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa ? – mà hiệp định Paris
còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.
(Hồi ký Nguyễn hiến Lê (tập 3) trang 20, 21, 22, 23, nhà xuất bản Văn Nghệ , Hoa Kỳ)_
Đọc những suy nghĩ đơn giản về diễn tiến chính trị mà thấy tội nghiệp
cho Học giả Nguyễn hiến Lê. Ông quá mơ màng ảo tưởng về cách đối xử
đàng hoàng của Bắc quân sau khi chiếm được miền Nam. Thực tế phũ phàng
đã dội một gáo nước lạnh vào mặt ông khiến ông tỉnh người và thốt lên
“Tôi ngây thơ quá“ Thật ra ông có cảm tình với kháng chiến (cộng sản)
từ lâu nên cuộc cách mạng cải cách ruộng đất kinh khiếp và tàn bạo ở
miền Bắc sau 1954 và sự tàn sát kinh hoàng tại Huế trong trận Mậu Thân
1968 cũng không làm ông thấy rõ hơn về bản chất tàn bạo khát máu của
bọn Cộng sản Việt Nam nên ông vẫn có những ý nghĩ tốt đẹp và tích cực
về bọn thú đội lốt người này. Biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã mở mắt cho
ông và những người khác đến nỗi nhạc sĩ mù Văn Vỹ cũng phải “ mở mắt “
ra chứng kiến sự độc ác, lưu manh của bọn Việt Cộng ! Rồi đến suy nghĩ
ngây thơ của ông khi cho rằng Cộng sản vào thì miền Nam sẽ chấm dứt nạn
tham nhũng! Ông Lê mất năm 1984, nếu ông sống thêm ít năm nữa, ông sẽ
thấy nạn tham nhũng trong chế độ Cộng sản còn gấp trăm ngàn lần chế độ
miền Nam. Đây lại là một suy nghĩ dễ dãi của ông, một trí thức tháp
ngà, không có điều kiện cọ xát vói thực tế nên cứ suy đoán viễn vông
sai sự thật.
Ông Lê phát hiện ra yếu tố phải sống mới hiểu chứ không thể hiểu một
chế độ qua sách vở nên ghi thêm suy nghĩ của mình như sau :
“Điều đó ai cũng biết nhưng
muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sang dưới chế độ dăm năm. Đó là bài
học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền
Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì thì
nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh , chịu suy nghĩ,
cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi .”
(Hồi ký Nguyễn hiến Lê, tập 3 trang 25, 26)
Dù sao Nguyễn hiến Lê là người không tham gia sinh hoạt chính trị,
chuyện ông sai lầm trong nhận định cũng là chuyện thường tình. Ngay cả
những người có chức vụ cao trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng sững
sờ thấm thía trước sự lật lọng của Cộng sản miền Bắc sau 1975. Trương
như Tảng, nguyên bộ trưởng tư pháp của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam,
lên thuyền vượt biển để sau này định cư ở Pháp. Bác sĩ Dương quỳnh Hoa,
nguyên bộ trường y tế của MTDPMN, làm đơn xin rút ra khỏi Đảng vì nhìn
thấy sự tàn ác bất lương lật lọïng của bọn Cộng sản miền Bắc. Đây có
thể nói là những con nai tơ ngây thơ trong chính trị. Trước đây họ vào
Đảng với ước mong cứu nước , cứu dân. Nào ngờ sau chiến thắng năm 1975,
Đảng hiện nguyên hình là một đảng cướp lưu manh dối trá cùng cực không
còn có thể chấp nhận được. Tiếc thay, biết khôn thì sự đã rồi ! Trương
như Tảng và Dương quỳnh Hoa đã từ bỏ địa vị xã hội, cuộc sống giàu sang
phú quý để vào bưng chiến đấu cho lý tưởng độc lập tự do, công bằng xã
hội theo sự dụ dỗ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ ngây thơ tưởng rằng sự
xả thân của họ sẽ đóng góp vào nền độc lập của tổ quốc và sự no ấm,
hạnh phúc của đồng bào. Sau ngày chiến thắng của Cộng sản năm 1975, họ
mới sững sờ nhìn thấy cái xấu xa lật lọng vô bờ bến của bọn Cộng sản
miền Bắc. Họ phải trả một giá rất đắc cho sự ngây thơ chính trị của
mình.
Mặt Trận Giải phóng Miền Nam
Trương như Tảng có kể chuyện trong hồi ký của
mình là sau 1975, Trương như Tảng có dự một cuộc duyệt binh trước Dinh
Độc Lập. Tảng đứng gần Đại tướng Cộng sản miền Bắc Văn tiến Dũng. Tảng
lên tiếng hỏi Dũng, “Sao những sư đoàn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đâu rồi?“ Dũng nhếch mép cười mỉa mai, “Quân đội đã thống nhất“.
Tảng choáng váng trước câu trả lời thẳng thừng và lạnh lùng của Dũng và
đủ thông minh để hiểu là Cộng sản miền Bắc đã cho giải giới Mặt Trận
khi chuyện xâm chiếm miền Nam đã hoàn thành. Dĩ nhiên Cộng sản miền Bắc
đã “vắt chanh bỏ vỏ“ , đã dẹp ngay Mặt Trận Giải phóng Miền Nam sau
ngày chiến thắng. Chúng chỉ sử dụng Mặt Trận như một công cụ dể che mắt
quốc tế trong chuyện xâm lăng miền Nam mà thôi. Xong chuyện rồi là
chúng dẹp bỏ Mặt Trận một cách không kèn không trống, không thương
tiếc.
Trương như Tảng còn kể thêm một
chuyện nữa trong hồi ký của ông là khi ông bị chính quyền miền Nam bắt
giam vì tìm ra ông có liên hệ với Cộng sản. Cha ông vào thăm ông trong
nhà giam và đau đớn nói với ông, “ Cha không hiểu sao con từ bỏ đời
sống vinh hoa phú quý, hạnh phúc gia đình để theo Cộng sản để rồi bây
giờ phải chịu cảnh tù tội, thân tàn ma dại như thế này ! “ Dĩ nhiên
Trương như Tảng từ bỏ tất cả sự nghiệp và hạnh phúc gia đình để đi theo
lời dụ dỗ cứu nước cứu dân đẹp đẽ và cao quý của Cộng sản. Đến ngày
chiến thắng , bọn quỷ đỏ mới lòi ra bộ mặt bất nhân, tàn bạo làm cho
Tảng mới vỡ mặt và không còn chịu đựng nổi để rồi phải lên thuyền vượt
biển ra đi tìm tự do như bao nhiêu đồng bào Việt Nam khác không sống
nổi dưới chế độ Cộng sản hà khắc, độc ác.
Loại trí thức du học ở Pháp như Bác sĩ Dương quỳnh Hoa, Giám đốc nhà
máy đường Sài gòn Trương như Tảng mà còn ngây thơ để cho Cộng sản dụ
dỗ, lường gạt thì nói gì đến loại nông dân, công nhân ít học như Võ thị
Sáu, Nguyễn văn Trỗi thì lại càng dễ bị lôi cuốn vào tham gia hoạt động
cho Cộng sản sau khi nghe lời đường mật lôi cuốn của chúng.
|
Dương quỳnh Hoa |
Không phải chỉ có những trí thức như Nguyễn khắc Viện, Nguyễn hiến Lê,
Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa là ngây thơ với Cộng sản đâu. Ngay cả
ông vua của nước Việt Nam là vua Bảo Đại cũng mắc lừa bọn Cộng sản gian
manh. Học giả Trần trọng Kim ( nguyên là thủ tướng trong chính phủ Bảo
Đại) có kể chuyện trong hồi ký “ Một cơn gió bụi” của ông là vào năm
1946 khi ông qua Hương Cảng (Hồng Kông) gặp vua Bảo Đại đang sống lưu
vong. Lúc gặp nhau, lời nói đầu tiên mà vua Bảo Đại nói với cụ Trần là
: “Chúng mình già trẻ mắc lừa bọn du côn” (Hồi ký “ Một cơn gió bụi “của Trần trọng Kim , trang 146).
Chữ du côn mà vua Bảo Đại nói ở đây để nói đến Hồ chí Minh và tổ chức
Việt Minh của Hồ. Khi nói bị mắc lừa, có nghĩa là vua Bảo Đại chấp nhận
mình đã ngây thơ tin nghe Cộng sản. Chữ “ du côn “ mà vua Bảo Đại dùng
để chỉ Hồ chí Mình và tổ chức Việt Minh thật là quá đúng vì lúc ấy
chúng đã lộ rõ nguyên hình là một bọn du côn, du đãng, lưu manh tàn bạo
đối với các đảng phái quốc gia khác trong cuộc chiến chống thực dân
Pháp. Khi vua Bảo Đại thoái vị để trao quyền cho Việt Minh và sau đó
nhận chức “cố vấn tối cao“ cho chính phủ Hồ chí Minh, ông đã nói một
câu bất hủ để đời “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ“.
Tiếc thay vua Bảo Đại không thể làm công dân một nước độc lập trong chế
độ Hồ chí Minh bịp bợm vìø độc lập chỉ là cái bánh vẽ để dụ dỗ những
người yêu nước theo Cộng sản. Vua Bảo Đại đã nhìn thấy con người gian
manh, quỷ quyệt của Hồ chí Minh khi ra Hà Nội cộng tác với Hồ và rốt
cuộc đã phải bỏ nước ra đi lưu vong để rồi không bao giờ trở lại quê
hương Việt Nam nữa. Thật ra một người sống trong cung vàng điện ngọc từ
nhỏ đến lớn như vua Bảo Đại làm sao hiểu thấu những trò đểu giả, dối
trá của thứ người hạ cấp bồi tàu, đầu đường xó chợ như Hồ chí Minh để
rồi bị con cáo già này gạt gẫm. Có điều đáng buồn là từ khi lưu vong
cho đến khi gửi nắm xương tàn trên đất Pháp, vua Bảo Đại chưa một lần
được về Huế thăm mẹ là Đức Từ Cung. Cả ba chính phủ Ðệ Nhất, Ðệ Nhị
Cộng Hòa của miền Nam và chế độ Cộng sản đã không tạo điều kiện cho vua
Bảo Đại làm bổn phận của một người con, về Việt Nam thăm viếng người mẹ
già bao năm xa cách. Cả ba chế độ đều không có được một cử chỉ nhân ái
dành cho với một ông vua tuy bất tài nhưng hiền lành vô tội này.
|
Trương như Tảng |
Chuyện những nhà đại trí thức ngây thơ với Cộng sản trước 1975 đã không
mở mắt được cho một số tổ chức hiện đang đấu tranh chống cộng dỏm ở hải
ngoại. Chúng mang danh chống cộng như vẫn mơ màng ảo tưởng cộng tác với
Cộng sản để mong kiếm ghế trong chính phủ Cộng sản ở quốc nội. Chúng
cho người điều trần trước quốc hội các nước Âu Mỹ nói tốt cho Cộng sản
để mong chiếm cảm tình với Cộng sản với mong ước Cộng sản sẽ chia cho
chúng chút cơm thừa canh cặn về quyền lực chính trị sau này. Tội nghiệp
cho sự ngây thơ đáng nguyền rủa của chúng. Đồng bào hải ngoại cần phải
nhìn cho rõ bộ mặt nham nhở khồn nạn của những tổ chức chống cộng cuội
này. Chúng hội họp khua môi múa mỏ ở đâu thì cũng nên mang cà chua
trứng thối đến để tặng chúng. Bao nhiêu kinh nghiệm cay đắng của những
người đã từng hợp tác với Cộng sản cũng không làm cho chúng mở mắt ra
được vì giấc mơ quyền lực đã làm chúng u mê nên chúng đi theo đường làm
tay sai cho Cộng sản mặc dù chúng mang danh nghĩa chống cộng. Thật đáng
nguyền rủa cho bọn súc vật “xanh vỏ đỏ lòng“ này.
Người dân Việt nam hiện nay không những chán ghét Cộng sản vì chế độ
chúng bất công, tham nhũng mà còn bất bình bức xúc về chuyện Cộng sản
Việt Nam bán đất, dâng biển cho Trung Cộng và đem công nhân Tàu đỏ vào
khai thác bô-xít ở Tây nguyên gây nên hiểm họa về môi trường sinh thái
và nguy cơ mất nước. Người dân chắc chắn sẽ hưởng ứng tham gia lời kêu
gọi “bất tuân dân sự- biểu tình tại gia“
do Hòa Thượng Quảng Độ vào tháng 5 – 2009 sắp tới. Cuộc đình công bãi
thị này chắc chắn sẽ có sức ép rất lớn làm lung lay và rung rinh chế độ
Cộng sản Việt Nam, một chế độ chỉ sống bằng bạo lực, dối trá và giờ đây
cam tâm làm tay sai cho Trung cộng, bán tháo bán đổ mảnh giang sơn gấm
vóc Việt Nam cho ngoại bang để mong duy trì quyền lực thống trị của
chúng. Năm 2009 chắc chắn sẽ là một năm nay đầy biến động, làm lung lay
tới gốc rễ chế độ gian ác Việt Cộng để từ đó đưa đến sự sụp đổ một ngày
không xa. Biết bao lọc lừa, gian trá do chế độ Cộng sản này gây ra sẽ
tan biến đi nhường chỗ cho một chế độ dân chủ đích thực, nhân bản, tự
do để từ đó nhân dân Việt Nam nắm tay nhau xây dựng lại đất nước rách
nát đau thương trong nền độc lập , tự chủ mới giành lại được.
Xin kết thúc bài viết bằng 2 bài thơ của nhà thơ Nguyễn chí Thiện, một
người ngồi tù Cộng sản suốt 27 năm, để vạch ra cái gian trá lật lọng
của Cộng sản với ước mong kể từ nay sẽ không còn ai ngây thơ tin tưởng
vào những lời đường mật tuyên truyền của Cộng sản nữa. Qua năm tháng,
sự dối trá đã phơi bày trơ trẽn và không còn có khả năng lừa bịp người
nhẹ dạ được nữa.
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Trước như trẻ thơ tôi nào biết được
Cộng sản là quân bất nhân tàn ngược
Thắt cổ dân đen đủ các loại tròng !
(Những suy nghĩ vụn vặt số 121)
MỖI LẦM LỠ
Mỗi lầm lỡ, một mảnh lòng rạn vỡ
Song thời gian hàn gắn được đôi phần
Riêng cái lầm nơi đất đỏ dung thân
Thời gian khoét to và sâu, bất tận!
Cuộc đời tôi có nhiều lầm lẫn
Lầm nơi, lầm lúc, lầm người
Nhưng cái lầm to uổng phí cả đời
Là đã ngốc nghe và tin Cộng sản!
(1963)
Ngày mà chế độ không còn lừa bịp được người khác nữa là ngày bị đào
thải, sụp đổ. Có điều đáng buồn là phải mất vài thế hệ mới gột rửa và
xóa bỏ hết bao tàn tích dối trá, lọc lừa mà Cộng sản đã gieo rắc trong
hơn nửa thế kỷ vào con người và xã hội Việt Nam,
Los Angeles, một trưa vắng lặng có nắng vàng hoe và chim kêu ríu rít giữa tháng 4 năm 2009
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
Email : dalatogo@yahoo.com
(Muốn đọc tất cả những bài viết của Trần Viết Đại Hưng, xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào tên Trần Viết Đại Hưng nằm bên trái).
|