Thứ Tư, 2024-12-04, 1:54 PM
Welcome Guest | RSS

Dân Chủ Cho Việt Nam

Main » 2009 » Tháng Bảy » 8 » Nội hàm của Điều 4 và tình trạng chân không của quyền lực hiến định
10:59 PM
Nội hàm của Điều 4 và tình trạng chân không của quyền lực hiến định

Tác giả: Nguyễn Xuân Phước

 

I. Đặt vấn đề

Chủ trương của Đảng và nhà nước Việt Nam hợp tác với tư bản Trung Quốc để khai thác mỏ bô-xít ở Tây Nguyên đang tạo ra những tranh luận gay gắt về tai hại môi sinh, quyền lợi và sức khoẻ của nhân dân, công nhân, và an ninh quốc phòng. Đồng thời chính sách đổi mới tại Việt Nam đã tạo ra sự trưởng thành nhanh chóng của những tập đoàn tư bản bản lớn trong nước và làm đời sống của giai cấp công nhân ngày càng xấu đi. Thêm vào đó, Việt Nam ngày hôm nay đang đứng trước nguy cơ mất một phần chủ quyền quan trọng trên Biển Đông vào tay Trung Quốc. Cho đến ngày hôm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa có phản ứng thích đáng về ngoại giao và quân sự để giành lại chủ quyền trên Biển Đông và bảo vệ quyền lợi của ngư dân Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Những sự kiện này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đứng trên phương diện Hiến pháp, quyền lợi của ba thành phần này có liên quan mật thiết đến Điều 4 Hiến pháp Việt Nam. 

Bài viết này chỉ nhằm trao đổi những phân tích và lý luận về Điều 4 dựa trên nguyên tắc lập hiến để thảo luận và phản biện những giá trị cơ bản cấu thành quyền lực thống trị xã hội. Mọi sự tranh luận và trao đổi rộng rãi những giá trị tinh thần của Hiến pháp chỉ có mục đích tăng cường tính chính thống dân chủ, chính thống lịch sử và chính thống pháp lý của uy quyền lãnh đạo đất nước.

II. Nội dung Điều 4

Điều 4 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992 qui định như sau:

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Điều 4 là điều khoản quan trọng nhất của Hiến pháp hiện nay vì nó qui định độc quyền lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều người cho rằng Đảng Cộng sản chỉ cần giữ Điều 4, và chỉ Điều 4 mà thôi là đủ để Đảng có quyền điều hành toàn bộ nhà nước và xã hội. Mặc dù trên thực tế nhận định như thế có thể đúng, nhưng về lý thuyết và lý luận hiến pháp thì nó hoàn toàn  phiến diện.

Ngoài quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Điều 4 có những qui định khác có tính cách xác định những yếu tính của một đảng lãnh đạo. Những yếu tính này trở thành một chuỗi điều kiện cần và đủ để cấu thành quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những điều kiện này được Điều 4 qui định như sau:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân;

2. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc;

3. Đảng Cộng sản Việt Nam phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

4. Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Điều 4 Hiến pháp dựa trên giả thiết là Đảng CSVN luôn luôn hội đủ những điều kiện đã đưa ra. Nếu không hội đủ những điều kiện đó thì đảng này thực tế nắm quyền nhưng không có cơ sở của quyền lực hiến định. Vì thế, chính Điều 4 sẽ thẩm định lại cơ sở quyền lực lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam theo qui định của Hiến pháp. Sự thể này dẫn tới tình trạng chân không quyền lực hiến định và hậu quả là một khủng hoảng hiến pháp nghiêm trọng vì nó đụng chạm đến những giá trị pháp lý và đạo đức nền tảng quyền lực quốc gia. 

III. Phân tích 4 điều kiện tất yếu của Điều 4:

1. Điều kiện thứ nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam phải là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân.

Tiên phong là người đi trước dẫn đường, là ngưòi xông ra trận đầu tiên, là người đi trước mọi người khác. Trong trận chiến một mất một còn vô tiền khoáng hậu giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư bản, Đảng CSVN phải đi trước những người công nhân để chiến đấu trực diện với giai cấp tư bản. Trong trận chiến một mất một còn này, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp vô sản sẽ chiến thắng và sẽ tiêu diệt giai cấp tư bản. Vai trò tiên phong của Đảng trong triết học Mác-Lênin là thực hiện cách mạng vô sản. Ngưòi cộng sản xông pha ở mặt trận phía trước để lãnh đạo giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư bản bóc lột, nhằm xây dựng một xã hội cộng sản công bình bác ái. 

Thế nhưng điều này nghịch với thực tế xã hội ngày nay. Chính sách đổi mới của Đảng CSVN đang được thực hiện trong 20 năm qua trên thực tiễn là một sự thành công lớn cho đất nước. Tuy nhiên sự thành công của sự nghiệp đổi mới là một sự thất bại của vai trò “tiên phong của giai cấp công nhân” theo tinh thần cách mạng vô sản. Nội dung của đổi mới là tháo gỡ những tác hại của chủ nghĩa Mác-Lênin trong đời sống kinh tế xã hội; là trả lại xã hội sinh hoạt kinh tế bình thường của ngưòi dân, là phục hồi và phát triển giai cấp tư bản. Trong tình trạng hiện nay, đổi mới chính là sự thoả hiệp của “ba dòng thác cách mạng” của cách mạng vô sản Việt Nam với giai cấp tư bản. Thoả hiệp với giai cấp tư bản không phải là tinh thần tiên phong đi trước vì giai cấp công nhân.  

2. Điều kiện thứ hai: Đảng Cộng sản Việt Nam phải là đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc.

Điều kiện này trước hết nói đến vai trò đại biểu của Đảng CSVN.  Đứng trên phương diện luật pháp, đại biểu là người đại diện được bầu ra để thay mặt cho số đông người, chẳng hạn như đại biểu quốc hội là những người được người dân bầu vào vị trí đại diện cho một tỉnh hay một thành phố lớn. Nguyên tắc đại diện là nguyên tắc dân chủ dựa vào thủ tục bầu cử. Người đại diện phải được lựa chọn thông qua một cuộc bầu cử. Ngay cả qui chế “Đảng cử dân bầu” dù không thể hiện tinh thần dân chủ, cũng là một thủ tục bầu cử hình thức cần có. Ở đây Điều 4 nói đến vai trò đại biểu của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng vai trò đại biểu này không được thông qua một thủ tục bầu cử. Do đó, Đảng Cộng sản không có cơ sở pháp lý để xác định tính chất đại biểu của mình.

Hơn nữa, người dân bầu người đại biểu chứ không bầu một đảng đại biểu. Luật pháp hiện nay hoàn toàn không nói đến thủ tục “bầu đảng”. Khi không có thủ tục bầu đảng đại biểu thì trên nguyên tắc dân chủ của xã hội văn minh phải có cuộc bầu cử người đại biểu. Khi những ngưòi đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản được tín nhiệm chiếm đa số thì lúc đó Đảng mới đưọc coi như là đảng đại biểu. Ở đây Điều 4 qui định Đảng Cộng sản là đại biểu trước khi có bầu cử. Điều này làm cho tư cách đại biểu của Đảng Cộng sản không có tính chính thống dân chủ.

Ngoài ra, khi nói đến bầu đảng đại diện là nói đến sự chọn lựa giữa đảng này và đảng khác. Ý chí lập  pháp (legislative will) của những nhà làm luật ở đây thừa nhận sự hiện diện của nhiều đảng trong sinh hoạt chính trị. Ý niệm chọn lựa người đại diện là đã chứa đựng giá trị chính trị đa nguyên. Nhưng trên thực tế Đảng Cộng sản không cho phép bất cứ một đảng nào khác ngoài mình hoạt động. Thực tế này hoàn toàn nghịch lại với ý chí và ngôn ngữ lập hiến của Điều 4.

Thứ hai, thành phần được đại diện được Điều 4 nói rõ là giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Cả ba thành phần này là những ý niệm của triết học Mác-Lênin, của lịch sử và cách mạng dân tộc. Những ý niệm này chưa thành một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân.

Ý niệm giai cấp công nhân là ý niệm nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Do tính quốc tế của phong trào cộng sản, ý niệm giai cấp công nhân hay nhân dân lao động thưòng được hiểu là giai cấp công nhân thuộc phong trào cộng sản quốc tế. Điều 4 nói đến ý niệm quyền lợi của giai cấp công nhân một cách chung chung, không xác định rõ là công nhân quốc tế hay công nhân Việt Nam. Điều này cần được xác định rõ ràng.

Ý niệm “nhân dân lao động” cũng không đưọc định nghĩa chính xác. Đan cử trường hợp một em bé 8 tuổi đi bán vé số ở vỉa hè. Làm thế nào Điều 4 xác định em là thành phần nhân dân lao động? Luật quốc tế bảo vệ trẻ em cấm trẻ em dưới 15 tuổi lao động, kể cả bán hàng trên vỉa hè, vậy quyền lợi của các em ở đây là quyền không phải lao động, tức là quyền không phải đi bán vé số. Nếu Đảng Cộng sản là đại biểu trung thành của lao động trẻ em thì  phải bảo vệ quyền bán vé số của các em, tức là phải bắt các em lao động. Điều này nghịch với luật quốc tế.

Riêng về khái niệm“dân tộc” cũng có nhiều nghĩa. Dân tộc ở đây là gì? Là nòi giống hay là nhân dân? Tại sao không dùng chữ nhân dân mà lại dùng chữ dân tộc có tính cách trừu tượng? Nếu dân tộc để chỉ nòi giống thì làm thế nào nòi giống có thể bầu Đảng Cộng sản làm đại biểu cho nòi giống? Ngoài ra nưóc Việt Nam hiện nay có nhiều dân tộc ít người, kể cả thành phần Hoa kiều. Liệu những dân tộc này có được đảng đại diện cho quyền lợi của họ hay không? 

Điều quan trọng hơn là đứng trên phương diện pháp lý, các khái niệm giai cấp, nhân dân lao động và dân tộc là những ý niệm rất mơ hồ và hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Những thành phần này không có tư cách pháp nhân để có thể bầu cho một đảng nào đó làm đại biểu của mình. Hiến pháp không có một điều khoản nào định nghĩa thế nào là giai cấp công nhân, nhân dân lao động hay dân tộc.

Tuy nhiên, giả như 3 thành phần được hiểu rành rẽ như là những thực thể có tư cách pháp nhân, thì Điều 4 lại đưa ra một điều kiện nữa là người đại biểu này là phải trung thành với quyền lợi của ba thành phần đó.  

Trung thành thuộc phạm trù đạo đức. Để bảo vệ nền tảng đạo lý xã hội, nhà nước phải luật hoá một số quan niệm đạo đức căn bản. Ở đây, Điều 4 không những luật hoá ý niệm trung thành mà còn hiến pháp hoá tính trung thành của Đảng. Tính trung thành ở đây được đặt lên địa vị cao nhất của luật pháp. 

Nhưng một người không thể trung thành với hai đối tượng có quyền lợi đối nghịch nhau. Do đó, vấn đề xác định tính trung thành của một người với hai đối tượng là một vấn đề cực khó, nếu không muốn nói là không thể làm được.

Đơn cử: “giai cấp công nhân” (nếu hiểu là giai cấp công nhân Việt Nam) là một phần của “nhân dân lao động” và “nhân dân lao động” là một phần của “dân tộc”. Lợi ích của một nhóm nhỏ không nhất thiết luôn đi cùng lợi ích của một nhóm lớn (bao gồm cả nhóm nhỏ trong đó). Trong trường hợp như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam phải xử lý thế nào? Thí dụ rất đơn giản: Lợi ích của giai cấp công nhân luôn gắn liền với việc tăng lương và tăng các khoản phúc lợi cho người công nhân. Tuy nhiên, để kinh tế phát triển được thì đôi khi nhà nước (do Đảng lãnh đạo) phải chủ động hạn chế các khoản lương và phúc lợi này để doanh nghiệp có thể giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh quốc tế. Khi xảy ra mâu thuẫn như thế, Đảng chỉ có quyền chọn một chứ không thể cùng một lúc trung thành với cả 3 nhóm.

Đó là chưa kể ngày nay, các tập đoàn tư bản to lớn đều do Đảng Cộng sản làm chủ và trực tiếp điều hành. Quyền lợi của những tập đoàn tư bản này luôn luôn mâu thuẫn với quyền lợi công nhân. Đứng trên quan điểm triết học Mác-Lênin, Đảng Cộng sản với tư cách là chủ nhân ông các tập đoàn tư bản không thể trung thành với giai cấp công nhân.  

Vấn đề trung thành với quyền lợi dân tộc cũng là vấn đề rất lớn. Khi Đảng Cộng sản Việt nam gia nhập phong trào cộng sản quốc tế thì các đảng viên lãnh đạo phải tuyên thệ trung thành với tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế. Tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản tuyên bố “người vô sản không có tổ quốc“. Biên giới những quốc gia có cùng chủ nghĩa cộng sản, như Việt Nam và Trung Quốc, phải xoá bỏ để hai nước cùng dắt tay nhau tới thế giới đại đồng. Tinh thần vô sản quốc tế kéo theo những nghĩa vụ quốc tế. Và nghĩa vụ quốc tế cùng với quan điểm đại đồng của chủ nghĩa cộng sản nghịch với quan điểm truyền thống của cha ông là phải bảo vệ nòi giống, phải bảo vệ lãnh thổ. Vậy khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố trung thành với chủ nghĩa cộng sản quốc tế thì làm thế nào Đảng có thể trung thành với quyền lợi của dân tộc? Khi quyền lợi của dân tộc mâu thuẫn với quyền lợi của vô sản quốc tế mà đại biểu hiện nay là Đảng Cộng sản Trung Quốc thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải đứng trên lập trường nào? Trường hợp cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên mặt biển là một trường hợp điển hình về mâu thuẫn giữa nghĩa vụ quốc tế và quyền lợi dân tộc. 

Như thế Điều 4 Hiến pháp yêu cầu Đảng CSVN phải trung thành với quyền lợi của những tập thể có những mâu thuẫn lợi ích quá lớn. Đây là những mâu thuẫn hủy diệt. Được bên này thì mất bên kia.   

3. Điều kiện thứ 3: Đảng Cộng sản Việt Nam phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin và theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

a. Nội hàm của các khái niệm “chủ nghĩa Mác-Lênin” và “tư tưởng Hồ Chí Minh” không được xác định rõ. Vì thế không có tiêu chí chuẩn mực để kiểm tra ĐCSVN có đi đúng theo các chủ nghĩa và tư tưởng này hay không.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là tên gọi chung cho chủ nghĩa Marxist và chủ nghĩa Leninist. Định nghĩa thế nào là chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề lớn, không những cho nhân dân mà cho cả Ban Tư tưởng, Tuyên giáo và Viện Triết học Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin thời Lênin khác với thời Stalin. Chủ nghĩa Stalin thì chắc chắn là có mâu thuẫn lớn vói chủ nghĩa Trotskyst. Chủ nghĩa Stalin cũng mâu thuẫn với chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Chủ nghĩa Mao lại mâu thuẫn với chủ nghĩa Đặng Tiểu Bình v.v. Lịch sử cho thấy tranh chấp của những loại tư tưởng Mác-Lênin này đã gây nên nhiều cảnh máu đổ đầu rơi tại Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam.

Như vậy chúng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin nào? Trong quá trình thực hiện cải tạo xã hội tại Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản luôn luôn trung thành với chủ thuyết Mác-Lênin. Nhưng càng trung thành thì lại càng sửa sai. Kiểm tra lại lịch sử cách mạng vô sản ngay tại đất nước ta cũng thấy tính bất nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin.  

Một chủ nghĩa mà sự thực hiện của nó có tính bất nhất làm sao có thể làm ngọn đuốc soi đường cho đảng đang cầm nắm quyền thống trị xã hội để lãnh đạo đất nước? 

b. Về điều kiện “theo tư tưởng Hồ Chí Minh” thì sự thể đặt ra một số vấn đề như sau: 

Thứ nhất, tại sao tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện trong Hiến pháp 1992 mà các Hiến pháp trước đấy không có? Tại sao tư tưởng chỉ đạo cho cả một dân tộc của một nhân vật lịch sử được nhiều người tôn vinh, có tầm vóc quốc tế mà phải đợi đến 23 năm sau (1969-1992) khi vị lãnh tụ qua đời mới được Hiến pháp công nhận? Nếu như thế phải chăng các Hiến pháp trước đây không ghi nhận sư tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh? Thế thì các nhà lập hiến phải giải thích thế nào cho nhân dân và đặc biệt là các em sinh viên học sinh về sự hình thành tư tưởng này, nội dung và vai trò của nó trước khi có Hiến pháp 1992 và tại sao các Hiến pháp trước đây không ghi nhận tư tưởng Hồ Chí Minh? 

Nghị định Chính phủ Việt Nam số 375/ CP Ngày 15/10/1979 về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh chỉ qui định lờ mờ về tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Là trung tâm nghiên cứu những tư liệu hiện vật và di tích lịch sử có quan hệ đến đời sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của Người và tuyên truyền, giáo dục quần chúng về sự nghiệp tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người thông qua những tư liệu, hiện vật và di tích đó“. Thế nhưng các văn kiện lịch sử trong thời gian này hoàn toàn không đề cập đến nỗ lực nào đáng kể để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta không thấy một nhóm nghiên cứu nào, hay viện nghiên cứu nào và cũng không thấy những bài vở quan trọng nào nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh trong Tạp chí Cộng sản, hay các tài liệu Đảng.

Do đó, sự xuất hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh trong Hiến pháp 1992 có tính cách đột xuất. Một tư tưởng chỉ đạo cho cả một dân tộc mà đột xuất, nói lên sự vội vàng hấp tấp, thiểu chuẩn bị, mang tính cách bức xúc, thì rất khó thuyết phục.

Nếu tư tưởng Hồ Chí Minh được hoàn thành 23 năm sau khi ông qua đời thì lấy tiêu chí gì để xác định là tư tưởng đó trung thực với những suy nghĩ của Hồ Chí Minh khi ông còn sống? Và ai là ngưòi có thẩm quyền ngang với Hồ Chí Minh để chấp bút viết ra “tư tưởng Hồ Chí Minh”?

Thêm vào đó, mặc dù hiện nay Việt Nam có hàng trăm tiến sĩ và thạc sĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng các tài liệu được phát hành vẫn chưa hoàn thành dàn bài cơ bản của tư tưởng. Một tư tưởng có giá trị cần trả lời các câu hỏi sau đây: Tiền đề triết học của tư tưởng này là gì? Công cụ lý luận là gì? Và hiệu ứng của nó ra sao? Cho đến ngày hôm nay những câu hỏi này vẫn chưa có câu trả lời.

4.  Điều kiện thứ 4: Mọi tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đây là điều kiện có lẽ gây khó khăn nhất cho Đảng CSVN vì nó liên quan đến sự tuân thủ hiến pháp và luật pháp của Đảng đang lãnh đạo đất nước. 

Lịch sử Đảng cho thấy Đảng thành hình trong thời kỳ Pháp thuộc, cùng thời kỳ với các đảng phái cách mạng có chủ trương chống Pháp giành độc lập như Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt, Dân Xã và Đại Việt Duy dân.  Dưới luật pháp của chính quyền thuộc địa, tất cả các đảng phái chính trị ra đời đấu tranh chống Pháp giành độc lập trước năm 1945 đều bất hợp pháp. Trong suốt thời gian nắm chính quyền từ 1945 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa hề có hành động pháp lý nào để hợp pháp hoá tình trạng bất hợp pháp nói trên của mình. Nói một cách khác, Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng Đảng vẫn chưa có tư cách pháp nhân đứng trên mặt pháp lý. Trong trường hợp này thì tình trạng bất hợp pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Sở dĩ có tình trạng bất hợp pháp của một đảng lãnh đạo đất nước như thế là vì khi đứng ra cầm quyền, Đảng không quan tâm đến việc thiết lập cơ sở pháp lý cho sự hiện diện của mình. Cơ sở pháp lý ở đây là luật về hội đoàn hay tổ chức chính trị. Tùy theo quan điểm lập pháp của quốc hội mà nhà nước thiết kế bộ luật về hội đoàn. Và nếu mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật thì Đảng phải có giấy phép hoạt động như mọi tổ chức khác. Trong tình trạng không có qui chế pháp lý để quản lý Đảng thì mọi hoạt động và tổ chức của Đảng đều đứng ngoài vòng cương toả của  Hiến pháp và pháp luật.

Sự tồn tại của một đảng lãnh đạo xã hội mà đứng ngoài vòng luật pháp tự nó đã phủ định giá trị của Điều 4 Hiến pháp, là cơ sở pháp lý tạo ra quyền lực cho Đảng.

IV. Kết luận

Vấn đề chúng ta đồng ý với Điều 4 Hiến pháp hay không là tùy theo quan điểm lập hiến, tư duy chính trị và sự nhận định riêng của từng người. Tuy nhiên nếu chúng ta đồng ý với Điều 4 thì ngay điều này cũng nẩy sinh ra những vấn đề  khó khăn như đã trình bày trên đây mà Hiến pháp và luật pháp hiện nay chưa giải quyết được và cũng có lẽ sẽ không thể nào giải quyết được nếu không có một cuộc cải cách Hiến pháp tận gốc rễ.

Một điều quan trọng như Điều 4 không thể dựa trên một giả định hay giả thiết là Đảng Cộng sản luôn luôn hội đủ 4 điều kiện mà điều khoản này đưa ra. Chưa nói đến chuyện không hội đủ cả 4 điều kiện nói trên, chỉ cần Đảng không hội đủ một trong 4 điều kiện trên thì chúng ta đã có tình trạng chân không của quyền lực hiến định. Điều này có nghĩa lực lượng lãnh đạo nhà nước không hội đủ điều kiện qui định bởi Hiến pháp và do đó không có năng lực Hiến pháp để có tồn tại.   

Một thể chế chính trị bền vững phải không cho phép sự tồn tại của một đảng lãnh đạo trong tình trạng chân không của quyền lực hiến định. Tình trạng chân không của quyền lực hiến định là một khủng hoảng hiến pháp nghiêm trọng, dễ đưa xã hội đến một khủng hoảng chính trị. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy mọi khủng hoảng Hiến pháp luôn luôn phát sinh ra những biến động xã hội hoàn toàn không có lợi cho xã hội, nhà nước và đảng cầm quyền. 

Trong bối cảnh của một “nhà nước pháp quyền” đòi hỏi người dân phải “sống và làm theo luật pháp và Hiến pháp” như ở Việt Nam, một đảng lãnh đạo không hội đủ điều kiện tự mình đưa ra để nhận quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội là một tình trạng mất tính chính thống đạo đức và pháp lý. Mất tính chính thống đạo đức và pháp lý là tình trạng thượng bất chính rất nghiêm trọng. Qui luật “thượng bất chính hạ tắc loạn” không phải luôn luôn đúng. Lịch sử đã từng minh chứng có những trường hợp “thượng bất chính” nhưng “hạ không tắc loạn“. Tuy nhiên đó là những trường hợp hiếm hoi bất bình thường của lịch sử. Nguyên tắc chính thống về quyền lực, chính thống dân chủ, chính thống pháp lý và chính thống đạo đức không cho phép nhân dân tiếp tục duy trì tình trạng thượng bất chính bất bình thường đó. 

Đứng trên lập trường lập hiến, vấn đề không phải là nên hay không nên giữ Điều 4. Chúng ta không nên có quan niệm cực đoan như “bỏ Điều 4 là tự sát” như Chủ tịch Nguyễn Minh Triết khẳng định. Trong điều kiện Hiến pháp đưọc phân tích ở trên, “bỏ 4 hay giữ 4″ đều có những khó khăn và bế tắc đặc thù của nó. 

Vấn đề được đặt ra ở đây là làm thế nào để nhà nước có thể điều chỉnh trường hợp thượng bất chính trong sự ổn định của xã hội để những đảng phái chính trị cầm nắm vận mệnh của đất nước có đầy đủ uy quyền nhà nước, sức mạnh tinh thần của lịch sử, sự đồng thuận của toàn dân để lèo lái con thuyền quốc gia đến bến bờ của độc lập tự do và hạnh phúc.

Dallas Texas 1 tháng 7 2009

Tham khảo

Hiến pháp Việt Nam 1992

Có cần phải sửa đổi Hiến pháp để cải cách Tư pháp?

LS Nguyễn Văn Đài: Quyền tự do thành lập đảng ở Việt Nam 

Đàn Chim Việt phỏng vấn Trần Mạnh Hảo  

Trần Mạnh Hảo: “Điểu 4 trong bản Hiến pháp nước CGXHCNVN năm 1992 phá huỷ nền tảng của chính bản Hiến pháp”

© 2009 Nguyễn Xuân Phước

© 2009 talawas blog


Category: Việt Nam ngày nay | Views: 707 | Added by: danchu | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Only registered users can add comments.
[ Registration | Login ]
Login form
Search
Our poll
Đánh giá
Total of answers: 887
Site friends
Statistics

Đang online: 16
Khách: 16
Thành Viên: 0