07.07.2009 Trong khoảng từ 1-12-2008 đến
31-5-2009, theo Viện Kiểm sát Tối cao: số vụ án tham nhũng mới khởi tố giảm 12%;
số bị can tham nhũng giảm 18,7%. Đặc biệt,
đối tượng bị khởi tố vì
tham nhũng là quan chức ở cấp trung ương, cấp tỉnh giảm nhiều trong khi quan
chức cấp xã, huyện lại tăng so với cùng kỳ năm trước.
Cùng thời gian đó, một cuộc khảo sát do Tập đoàn Ernst &Young và VCCI
tiến hành cho thấy, “hơn 80% doanh nghiệp liên quan đến tham nhũng
và 48% doanh nghiệp đã từng mất hợp đồng, mất cơ hội làm ăn vì không đưa hối
lộ”. Nếu không có cuộc Khảo sát độc lập nói trên, thì những con số
mà Viện Kiểm sát Tối cao đưa ra dễ mang lại cảm giác, tham nhũng đã giảm sau khi
có “Luật Phòng Chống” và sau khi có các “Ban Chỉ đạo”.
Luật Phòng Chống Tham nhũng buộc “cán bộ từ phó trưởng phòng của ủy ban
nhân dân huyện”, thậm chí “một số cán bộ, công chức tại xã,
phường” cũng phải kê khai tài sản “có giá trị từ năm mươi triệu đồng
trở lên”.
Tuy nhiên, chưa có vụ tham nhũng nào được phát hiện dựa trên các bản kê khai
tài sản. Vụ PCI, khi vừa xảy ra, cho dù phía Nhật yêu cầu Việt Nam điều tra tài
sản của ông Huỳnh Ngọc Sỹ ngay, nhưng “bản kê khai tài sản” của ông Sỹ dường như
đã không trở thành một trong những căn cứ giúp tìm ra khoản tiền hối lộ, được
nói là, có thể lên tới hàng triệu đô la tiền mặt.
Buộc kê khai tài sản của cán bộ, từ cấp phường xã, tưởng như có thể bày tỏ
được khát vọng chống tham nhũng một cách lớn lao. Nhưng, sở dĩ phương thức chống
tham nhũng khá hiệu quả ở nhiều quốc gia này đã không phát huy tác dụng ở Việt
Nam là bởi người dân không tiếp cận được thông tin về tài sản mà cán bộ đã từng
kê khai ấy. Gần 320.000 người phải kê khai tài sản theo Luật ở Việt Nam mà vẫn
không làm cho dân chúng quan tâm. Trong khi, ở Hàn Quốc, “Ủy ban Đạo đức Công
chức” chỉ cần công bố tài sản khai báo của trên dưới một trăm người là “thế trận
chống tham nhũng” ngay lập tức được toàn dân ủng hộ.
Từ năm 1981, Tổng thống Chun Doo-hwan của Hàn Quốc đã ban hành “Luật Đạo đức
Công chức”, theo đó quy định chế độ đăng ký tài sản. Tuy nhiên, Luật này đã
không phát huy tác dụng vì nhà độc tài Chun Doo-hwan đã giữ những bản kê khai ấy
“trong hồ sơ”. Luật chỉ thực sự phát huy tác dụng từ năm 1988, khi Tổng thống
Roh Tae-woo đứng ra công khai tài sản của mình và đặt tài sản của 103 quan chức
khác dưới sự “giám sát của dân chúng”.
Sở dĩ “việc tiết lộ thông tin của hồ sơ xác minh (tài sản) bị nghiêm
cấm”, theo Phó Tổng thanh tra Chính phủ, ông Mai Quốc Bình:
“Những hồ sơ này được quản lý theo quy định về quản lý hồ sơ cán
bộ”. Một quan chức cao cấp trong lĩnh vực chống tham nhũng khác,
ông Trần Đại Hưng, Phó Ban Nội chính Trung ương, thì nhận thức:
“Không nên công khai vì đó là quyền cá nhân, phải được bảo
vệ”.
Quyền riêng tư của cá nhân đúng là thiêng liêng, nhưng với
một người có thể sử dụng quyền lực để thâu tóm tài sản một cách bất minh thì lợi
ích của nhà nước, của nhân dân quan trọng đến nỗi, không thể giữ “đất đai, biệt
thự” của những người ấy trong vòng bí mật.
Nếu thực tâm chống tham nhũng, không chỉ tài sản của các quan chức, của vợ
hoặc chồng, của con cái, dâu rể… đều phải công khai; mà, các riềng mối làm ăn
của họ cũng phải được nhân dân giám sát. Vợ con của ông giám đốc sở quy hoạch
không thể làm dịch vụ xin giấy phép xây dựng; dâu rể của một ông bộ trưởng không
thể là đối tác của các tập đoàn nhà nước thuộc ngành ông; ngay cả danh sách
những người “hùn hạp” với vợ con của các quan chức cao cấp cũng phải được công
khai, bởi những khoản “hùn hạp” ấy có thể trở thành những khoản “lobby chính
sách”.
Vì sao trong số hơn 300 nghìn cán bộ kê khai tài sản chỉ có dăm bảy trường
hợp bị khiếu nại “khai man”? Ông Đặng Hạnh Thu mua được 26 lô đất ở Biên Hòa khi
ông còn là Cục trưởng Hải quan Đồng Nai, nhưng cho đến khi lên đến Tổng Cục
trưởng Tổng cục Thuế, số tài sản ấy không ai biết liệu có “nằm trong hồ sơ cán
bộ”. Những cấp đề bạt ông Thu có thể không biết 26 lô đất nói trên, nhưng người
dân Biên Hòa thì biết.
Nếu như quy trình bổ nhiệm những quan chức cao cấp như ông Thu diễn ra một
cách công khai và hồ sơ tài sản mà những cán bộ như ông kê khai cũng được đưa
lên báo chí và đưa lên website của Ban Chỉ đạo Phòng Chống Tham nhũng thì nhân
dân sẽ lập tức giúp nhà nước phát hiện phần mà những quan chức này che giấu.
Ngoài việc công khai tài sản, Luật cần bổ sung điều khoản xử lý việc khai man,
có thể coi phần tài sản mà quan chức cố tình che dấu ấy là “tài sản bất minh”,
có thể bị truy cứu tội tham nhũng nếu có thêm chứng cứ hoặc bị sung vào công
quỹ. Phát giác của người dân về tài sản của các quan chức cao cấp phải được pháp
luật bảo vệ, cho dù thông tin ban đầu có thể chưa chính xác.
Chỉ nên công khai tài sản của những quan chức ở những cấp mà quyền lực của họ
có thể ảnh hưởng tới chính sách, tới những dự án mang lại nhiều tiền bạc. Nếu
các quan chức từ chối công khai tài sản của mình vì cho đó là những thông tin
riêng tư, thì họ hoàn toàn có thể từ chối nhận những quyền cao chức trọng. Một
người không thể vừa rao giảng trước nhân dân vừa sở hữu những tài sản không thể
chứng minh nguồn gốc. Công khai rõ ràng là một chế tài khắc nghiệt, nhưng chỉ có
công khai mới loại ra khỏi bộ máy những người lựa chọn quan quyền không phải vì
muốn làm công bộc của dân.
Không thể nhân danh quyền riêng tư của “các quan” để không áp dụng một phương
thức chống tham nhũng được tin là sẽ mang về hiệu quả. Vì, nếu không chống được
tham nhũng, thì không chỉ “quyền riêng tư” mà những quyền căn bản khác của người
dân cũng sẽ bị tham nhũng đe dọa. Đạo đức, xã hội và môi trường kinh doanh liệu
có thể phát triển lành mạnh được không, khi mà “48% doanh nghiệp đã
từng mất hợp đồng, mất cơ hội làm ăn vì không đưa hối
lộ”.