Trong quá khứ đã có nhiều lần Trung Quốc (TQ) lấy được đất của nước
ta, do vua quan VN tấn cống theo lối mua chuộc để được yên thân hay do
lòng tham của Đại Hán. Nếu chỉ nhắc lại những lần lấn chiếm đất đai của
Việt Nam do lòng tham, những vùng đất có giá trị về kinh tế và chiến
lược, lý do để TQ biện hộ cho việc chiếm đất hình như trước sau như một
: lấy tên một vùng đất nào đó của TQ đặt cho các vùng đất của VN, sau
đó đem quân sang chiếm. Các vụ lấn đất, dành đảo, chiếm biển của VN xảy
ra từ đầu thế kỷ 20, đến sang thế kỷ 21, cũng đều bắt đầu tương tự như
vậy.
Về vùng biển chữ U, được vẽ bởi 9 gạch của TQ, chiếm phần lớn vùng biển
của VN, bao gồm đến 80% biển Đông là có ý nghĩa như thế nào ? Dựa trên
lý do nào mà phía TQ cho rằng vùng biển này là của họ? Thiển nghĩ nhìn
lại lịch sử, xét lại các trường hợp bị mất đất, cũng có thể cũng tìm ra
một vài câu trả lời thỏa đáng. Điều quan trọng hơn hết, từ các kinh
nghiệm đó, ta có thái độ thích hợp để có thể giữ, hoặc không để mất
nhiều, các vùng biển, đảo của cha ông để lại.
1/ Âm mưu chiếm đất năm 1724:
Theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quí Đôn, TQ lập mưu chiếm tổng Tụ Long
(thuộc châu Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang) vì nơi đây có nhiều quặng mỏ quan
trọng : Mỏ bạc và đồng ở làng Na Ngọ (các mỏ Phượng Hoàng, Thiên
Nguyên, Tụ Bảo, Mậu Hưng), mỏ đồng Bán Gia, mỏ kẽm Kha Thôn, mỏ bạc Nam
Ðương cùng 4 mỏ bạc Long Sinh, Thủy Ðộng, Minh Chiều và Ðà Gia v.v…
Âm mưu của phía TQ là cho quân sang chiếm các làng, xã thuộc tổng Tụ Long của VN với lý do các làng, xã này là của TQ.
Thực ra phía TQ đã đặt tên cho các làng xã thuộc tổng Tụ Long của VN
bằng tên các làng xã của TQ. Quan trọng hơn cả là con sông Đổ Chú, tức
con sông biên giới giữa tổng Tụ Long (VN) và phủ Khai Hóa (TQ), bị phía
TQ gán cho một tên khác, cũng thuộc TQ, nhưng ở xa về phía nam.
Nội dung việc này được cụ Lê Quí Đôn ghi lại trong Kiến Văn Tiểu Lục : (phía TQ đã) « lầm lẫn làng Ma-Tu 痲須 với trại Mã Đô 馬都; làng Tà Lộ 斜路 với trại Bố Ðô 布都; làng Phù Không 扶空 với trại A Không 阿空; làng Phù Ni 扶尼 với trại Bạch Nê 白泥; làng Nhĩ Hô 爾呼 với trại Ngưu Hô-Hắc 牛呼黑 và quan trọng là lẫn lộn suối Tam-Khê 三溪 với sông Ðổ Chú ».
Nhưng ở thời điểm này (1724) lực lượng quân sự Việt Nam được củng cố
mạnh mẽ: « Chúa Trịnh Cương sai Trấn Thủ Trịnh Kinh ra mật lệnh cho các
thổ ti đem quân cản và giữ chân chúng lại. Trịnh Kinh chận đầu, đóng
quân tại làng Phù Lung. Thấy bên ta binh mã hùng mạnh và dân chúng theo
qui phục, Tổng Trấn phủ Khai Hóa họ Phùng phải lui quân ».
Rốt cục, tháng 4 năm 1725, vua nhà Thanh ra chiếu trả lại toàn vùng đất
Tụ Long cho Việt Nam. Tuy nhiên, Kiến Văn Tiểu Lục ghi tiếp : « Sau khi
có quyết định được trả lại đất, Chúa Trịnh ra lệnh cho các quan Hồ Phi
Tích và Võ Công Tể đến với tri phủ Khai Hóa là Phiên Doãn Mẫn để thành
lập ủy ban phân giới. Nhưng Doãn Mẫn vẫn ngoan cố muốn chiếm đoạt mỏ
đồng nên gian dối chỉ định một con sông khác, sông này ở dưới chân núi
Duyên Xưởng, và cho đó là sông Ðổ Chú, nhằm mục đích giữ lại các làng,
xã thuộc Bảo Sơn. Việc này Võ Công Tể biết được, chỉ định vị trí thực
sự của con sông Ðổ Chú. Từ đó vấn đề tranh chấp biên giới tạm kết
thúc. »
2/ TQ lập mưu giành được đất Tụ Long qua dịp phân định biên giới giữa
các tỉnh Nam Hoa với Bắc Kỳ, do Pháp và nhà Thanh thực hiện vào những
1885-1887 :
Việc phân định biên giới vùng Vân Nam không được phân định trên thực
địa như tại Quảng Tây và Quảng Đông mà chỉ phân định trên bản đồ.
Nguyên nhân do sự phá hoại từ phía TQ.
Vùng Vân Nam được phân làm 5 tiểu đoạn, trên 5 tấm bản đồ. Ðoạn thứ 1 bắt đầu từ hợp lưu của sông Lũng Pô (Long-Bác 龍賻)
với sông Hồng cho đến Mường Khương. Ðoạn thứ 2 từ Mường Khương đến Cao
Mã Bạch. Ðoạn thứ 3 từ Cao Mã Bạch cho đến sông Nho Quế. Ðoạn thứ 4 từ
sông Nho Quế đến giao giới tỉnh Quảng Tây. Ðoạn thứ năm từ hợp lưu sông
Lũng Pô với sông Hồng cho đến biên giới Lào. Nhưng các tấm bản đồ phân
định này do người Hoa vẽ ra, hoàn toàn sai, không có điểm nào phù hợp
với thực địa.
Các đoạn 1, 3 và 4 được phân định không gặp khó khăn nhưng đoạn 2, từ
Mường Khương đến Cao Mã Bạch, tức vùng thuộc các tổng Tụ Long và Phương
Ðộ, và vùng 5 từ Lũng Pô đến biên giới Lào, hai ủy ban phân định Pháp
Thanh không giải quyết được. Việc này phải đưa về Bắc Kinh để Tổng Lý
Nha Môn (tương đương bộ ngoại giao) cùng Đặc Sứ Toàn Quyền Pháp tại đây
quyết định.
Nguyên
nhân hồ sơ đoạn 2 đã không giải quyết được, vì phía TQ tưởng rằng Pháp
không hiểu biết, cho rằng đường trung tuyến của sông Lô là đường biên
giới và gọi đó là Ðổ Chú Hà.
Phía ủy ban Pháp, đại diện triều đình nhà Nguyễn, có đầy đủ sử liệu
chứng minh, kể cả tài liệu từ các địa chí TQ, phản biện rằng sông đó
không phải là sông Đổ Chú, mà là sông Lô của Việt Nam, TQ gọi Hắc Hà.
Sông Lô ở về phía nam, trong khi sông Đổ Chú ở khá xa về phía bắc, gần
Mã Bái Quan.
Phía bên người Hoa, nhất quyết muốn chiếm vùng đất trù phú này, mặc dầu
âm mưu đã bị lộ, họ vẫn ngang ngược nói rằng rằng sông Lô mới là Ðổ Chú
Hà, còn con sông kia, sông Đổ Chú thật, họ bịa ra một cái tên là Tiểu
Đổ Chú Hà.
Vấn đề Tụ Long (cùng một số vùng đất khác của VN) được giải quyết qua
biên bản « bế mạc công trình phân định biên giới » ngày 26-6-1887, còn
được gọi là « Công Ước Pháp Thanh phân định biên giới » ngày 26 tháng 6
năm 1887. Kết quả làm cho Việt Nam mất vùng đất trù phú, giàu quặng mỏ
(mỏ đồng, mỏ bạc, mỏ kẽm…) diện tích vào khoảng 700km2.
Như thế, TQ đã chiếm đất Tụ Long của VN bằng cách lấy đổi tên các con
sông. Năm 1724 thì đổi tên sông Đổ Chú thành sông Tam Khê, vụ việc bại
lộ, sau đó chỉ định sông Đổ Chú ở chân núi Duyên Xưởng, để chiếm đất,
nhưng vụ này không thành. Năm 1887, TQ thành công chiếm được đất này
cũng bằng âm mưu ngày trước : đặt tên Đổ Chú cho một con sông khác (ở
đây là sông Lô), sau đó dùng thủ thuật ngoại giao với Pháp để chiếm.
(Thực ra, ông Constans, Đặc Sứ toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh, người có
trách nhiệm về công ước phân định biên giới 1887, ông này cùng lúc
thương lượng hai công ước : công ước về biên giới và công ước bổ túc
cho công ước thương mãi « Convention additionnelle de Commerce ». Cả
hai công ước cùng ký ngày 26 tháng 6 năm 1887. Để có ưu điểm về kinh
tế, ông Constans đã nhượng đất của VN cho TQ. Nhưng nếu không có âm mưu
và lòng tham của TQ thì việc này đã không xảy ra).
3/ Vụ đất Vụ Kiến Duyên – Bát Tràng (Hải Ninh):
Trong biên bản phân định biên giới « Từ Trúc Sơn đến Chí Mã » ký ngày
29-3-1887 thì đường biên giới đi qua chân ngọn Phân Mao Lãnh. Điều này
phù hợp với biên giới lịch sử giữa hai nước Việt-Trung.
Tuy nhiên, đến khi bắt tay vào việc cắm mốc phân giới thì mới thấy công
việc hoàn toàn không như vậy. Bản báo cáo ngày 12 tháng 9 năm 1890 của
ông Chiniac de Labastide, chủ tịch ủy ban phân giới (1890-1891) cho
biết Phân Mao Lãnh không hiện hữu trong toàn vùng biên giới mà Ủy Ban
Phân Giới đã thám hiểm.
Khi ông Chiniac de Labastide chất vấn ông Chủ Tịch Ủy Ban Phân Giới
Trung Hoa về trái núi mà dưới chân nó có trụ đồng để đánh dấu biên giới
tên là Phân Mao Lãnh thì ông này chỉ đại núi này là một trái nứi nhỏ ở
gần đó. Nhưng phía phái đoàn Pháp có đầy đủ dữ kiện, bằng địa chí của
TQ, chứng minh rằng núi này ở gần Khâm Châu. Phía TQ mới giải thích núi
này không phải là Ðại Phân Mao Lãnh, nổi tiếng do trụ đồng của tướng Mã
Viện, mà chỉ là một Tiểu Phân Mao Lãnh.
Việc này cho thấy phía người Hoa đã đặt tên « Phân Mao » cho một ngọn núi vô danh ở thật xa về phía nam để dành đất của VN.
Cũng trong báo cáo này, ông Chiniac De Labastide cho biết phía bên TQ
ngụy tạo đền thờ « Phục Ba tướng quân » ở gần đó cho núi Phân Mao có
tính thuyết phục.
Hậu quả việc này, Ông Chiniac de Labastide viết trong bản báo cáo nói
trên : « người Hoa đã dành được của An Nam một vùng rộng lớn, trên một
chiều dài khoảng 40 cây số, người ta đã bỏ biên giới lịch sử của An Nam
và Trung Hoa để lấy một đường biên giới khác, ở xa về phía nam, một
đường biên giới hoàn toàn qui ước. Việc này đã nhường cho Trung Hoa 7
xã rưỡi thuộc tổng Bát Tràng của An Nam và hai xã khác cũng của An Nam
thuộc tổng Kiến Duyên”.
Diện tích vùng đất này rất đáng kể. Chiều dài 40km, chiều sâu có nơi
lên tới 140km (vị trí Phân Mao Lãnh). Nhiều nghi vấn đặt ra, từ khi nào
đường biên giới thay đổi lớn lao như thế ? Phải chăng do hậu quả của vụ
Mạc Đăng Dung ? Nhưng đây là một nghi vấn lịch sử khác.
4/ Mất đất tại Nam Quan :
4.1
Buổi họp đầu tiên của hai ủy ban phân định biên giới Pháp-Thanh được
nhóm tại Nam Quan ngày 12 tháng 12 năm 1885. Phía ủy ban Pháp lấy Đồng
Đăng làm bản doanh và phía TQ lấy Nam Quan làm bản doanh. Việc phân
định xảy ra trên thực địa, có nghĩa là hai bên cùng cử người đi khảo
sát trên thực tế và vẽ bản đồ.
Theo thực tiễn và lịch sử giữa hai nước Việt-Trung, đường biên giới
luôn được xác định bằng các cửa ải, thí dụ : ải Du, ải Bố Sa, ải Sơn
Tử, ải Bình Nhi, ải Ná Chi, ải Khấu Sơn v.v... Tại cửa ải Nam Quan
(Trấn Nam Quan Ngoại, tức ải Bắc theo Việt Nam) đường biên giới lý ra
phải đi ngang qua cửa, đất phía nam thuộc về Việt Nam, đất phía bắc
thuộc về Trung Quốc. Nhưng phía người Hoa không muốn như vậy, họ không
chấp nhận đường biên giới đi ngang qua cửa ải.
Theo bút ký của Bác-Sĩ Néïs « Sur Les Frontières Du Tonkin », việc phân
định không dễ dàng vì người Hoa muốn dành toàn vùng chung quanh Nam
Quan. Ông kể lại, khi phái đoàn Pháp vừa ra khỏi Ðồng Ðăng để đi lên
cửa ải thì đã thấy cờ nheo cắm đầy trên những ngọn đồi chung quanh và
lính Tàu phất cờ nheo đứng dọc hai bên đường. Phe Trung Quốc muốn chứng
tỏ cho phái đoàn Pháp biết là họ đang ở trên đất của người Hoa.
Tuy nhiên việc này không thuyết phục được người Pháp, vì ủy ban Pháp
đòi hỏi đường biên giới phải đi qua cổng Nam Quan, tức là bức tường đá
nối cổng Nam Quan lên đỉnh núi. Nhưng phía TQ nhất định không đồng ý và
đòi biên giới phải ở phía Nam cổng Nam Quan, tức đòi một thêm vùng đất
trước cổng.
Việc phân định biên giới bị bế tắt ngay từ buổi họp đầu tiên. Công việc
đình trệ 3 tháng. Sau đó, do áp lực của Pháp, phía bên người Hoa mới
ngồi lại vào bàn họp. Kết quả đầu tiên, 6 tháng sau khi ủy ban Pháp
được thành lập và 3 tháng làm việc, khi tại Ðồng Ðăng, khi tại Nam
Quan, đường biên giới tại Nam Quan được xác định. Theo biên bản số 4,
phân định từ Nam Quan đến Bình Nhi, ký ngày 7 tháng 4 năm 1886, Pháp
nhượng bộ đòi hỏi phi lý của TQ, đường biên giới phải lui về phía nam
100 mét, tức cách cổng Nam Quan 100 mét.
4.2 Mất đất ở Hữu Nghị Quan :
Hiệp định phân định biên giới tháng 12 năm 1999 đã nhưọng rất nhiều
phần đất của VN cho TQ, bằng những âm mưu tương tự như thế. Thí dụ khu
vực nối đường ray, theo tài liệu : « Tình-hình Trung-Quốc lấn chiếm
lãnh-thổ Việt-Nam từ năm 1954 đến nay » của NXB Sự Thật, năm 1979, Việt
Nam tố cáo Trung Quốc đã lấn đất vùng Nam Quan. Nguyên văn như sau :
Năm
1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường
sắt từ biên giới Việt Trung đến Yên Viên, gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin
của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung
sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử,
coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua.
TQ lý luận như thế này : nếu là đất của VN tại sao có đường ray với kích cỡ của TQ ?
Các trường hợp khác, cũng trong tài liệu dẫn trên, nguyên văn như sau :
Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân
dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc
đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương,
rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối cùng
nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ
Trung Quốc.
Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho
kiểu lấn chiếm đó. Khu vực nầy được các văn bản và các bản đồ hoạch
định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam: đường biên
giới lịch sử tại đây đi qua một dãi núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường và
vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu
đời qua, những người dân Trình Tường, những người dân Trung Quốc sang
quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng
từ năm 1956, phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân sang làm ăn ở Trình
Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải, và
nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Ðồng Tâm thuộc huyện Ðông Hưng, khu
tự trị Choang - Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc ngiễm nhiên biến
một vùng lãnh thổ Việt Nam, dài 6 km, sâu hơn 1.300 m thành sở hữu tập
thể của một công xã Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã
nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây
điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực nầy, đơn phương sửa lại
đường biên gới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra
rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra
theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa mầu của nhân dân địa
phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên
40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã
Thanh Loa, huyện Cao Lộc (mốc 25,26,27) ở Lạng Sơn, Khẳm Khau (mốc
17-19), ở Cao Bằng, Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà
Tuyên, khu vực xã Nam Chay (mốc 2-3) ờ Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn
4 Km, sâu hơn 1 Km; diện tích hơn 300 héc-ta.
Phía TQ lý luận : đất của VN sao có dân TQ sinh sống ?
Cũng có nơi trên vùng biên giới, luận điệu của TQ là : nơi nào cho
« chuối xanh » thì nơi đó là đất của TQ, vì chỉ có dân TQ mới trồng
chuối ! Lại có nơi tử sĩ TQ chết lại chôn bên đất của VN, nhất là sau
trận biên giới 1979. Đất này trở thành đất Tàu ! Nếu không phải đất của
TQ tại sao có nghĩa trang của người Hoa ?
Cứ như thế mà đất của VN trở thành đất của TQ.
5/ Vụ tổng Đèo Lương, thác Bản Giốc và núi Khấu Mai.
5.1
Tổng Đèo Lương xưa thuộc tỉnh Cao Bằng, ở phía đông bắc tỉnh tỉnh này,
phía nam là Thủy Khẩu, phía bắc có sông Qui Xuân chảy vào, diện tích
khoảng 300km², mất vào tay TQ nhân dịp phân giới 1893-1894. Trên bản đồ
hiện nay là phần lõm vào ở đông bắc Cao Bằng. Trường hợp mất được ghi
vắn tắt qua nhật ký của Ủy Ban Phân Giới vùng Quảng Tây, trong chiến
dịch phân giới 1893-1894. Theo đó, phía TQ đã lấy tên của một số làng
xã của phía TQ để đặt tên cho các làng xã thuộc tổng Đèo Lương. Song
song đó, phía TQ vận động với Đặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh để lấy vùng đất
này, mặt khác, họ tìm cách kéo dài thì giờ, vì đây là điểm yếu của
Pháp : càng kéo dài thì việc cắm mốc giới càng thêm tốn kém mà ngân
sách của mẫu quốc dành cho Bắc Kỳ ngày thêm hạn chế. Cuối cùng, Pháp
nhượng bộ trên vấn đề Ðèo-Lương nhưng với điều kiện tiên quyết là Pháp
phải được trái núi quan trọng về chiến lược : Khấu Mai (TQ gọi là Khấu
Mai Lĩnh, VN gọi là Cao May).
Như thế Việt Nam mất đất Đèo Lương vì lý do âm mưu đổi tên các làng
mạc của TQ và sự nhượng bộ của Pháp. Ta thấy âm mưu hoán đổi tên các
địa danh để chiếm lấy đất được sử dụng ở đây đã được sử dụng trước đó
nhiều lần.
5.2 Thác Bản Giốc:
Theo các chi tiết đã ghi trong các biên bản, nhật ký phân giới, sông
Qui Xuân (Qui Thuận, Quây Sơn) chảy vào phía bắc của tổng Đèo Lương.
Vào lúc phân giới thác Bản Giốc nằm sâu trong lãnh thổ của Việt Nam.
Nếu không mất Đèo Lương thì sẽ không bao giờ có tranh chấp chủ quyền
tại Bản Giốc vào những năm sau này, vì nó sẽ nằm sâu vào lãnh thổ VN. Có 2 tài liệu cho thấy thác Bản Giốc sau khi phân giới cắm mốc nằm trên lãnh thổ VN và cách đường biên giới đến 2 km :
Tài liệu 1 : Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, Par le
Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des
Frontières Sino-Annamites en 1894. Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895 (Trang 12-13; 142,143).
Tài-liệu 2 : Bulletin du service Géologique de l’Indochine (Sở Địa Chất
Đông Dương), Volume XI, Fascicule I, Etudes Géologiques sur le Nord-Est
Du Tonkin, (Feuilles de Bảo Lạc, Cao Bằng, Hà Lang, Bắc Kạn, Thất Khê
và Long Châu), Réné Bourrret; Ha-Noi – Hải-Phòng Imprimerie d’Extrême
d’Orient – 1922, trang 32-33-34. Thác Bản Giốc được gọi là thác Tu Tong.
Tài liệu « Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954
đến nay » của NXB Sự Thật, năm 1979, Việt Nam tố cáo Trung Quốc chiếm
thác Bản Giốc như sau :
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam
tỉ-lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một
số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt
Nam thành của Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản
Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản
Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.
Tại khu vực cột mốc 53 (xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng)
trên sông Qui Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính
quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976,
phía Trung-Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang
lập thành hàng rào bố phòng dày dặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản
Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập
kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc
đã rồi, xâm phạm lãnh-thổ Việt-Nam trên cồn Pò Thoong và ngang-nhiên
nhận cồn này là của Trung-Quốc.
5.3 Núi Khấu Mai : Núi
này hoàn toàn thuộc Việt Nam theo biên giới lịch sử. Trong dịp phân
giới và cắm mốc lại, núi này được trao đổi với tổng Đèo Lương : VN giữ
núi Khấu Mai, TQ được tổng Đèo Lương. Nhưng phía TQ vẫn ngang ngược
nhứt định giành nó về phía họ. Núi này khoảng giữa Bình Nhi và Thủy
Khẩu, được cắm mốc số 15 trên biên bản phân giới ngày 19 tháng 6 năm
1894 ký kết giữa ông Galliéni và ông Thái Hy Bân. Núi này có vị trí
chiến lược quan trọng, địa hình thuận tiện cho quân đội đóng quân, có
đường mòn từ phía Việt Nam dẫn lên đỉnh. Trên núi có 3 nguồn nước, đất
tốt nên dân chúng khai thác trồng trọt, cây cối xinh tươi. Chiếm giữ
được nó thì có thể kiểm soát được cả vùng Long Châu cho tới Bằng Tường.
Do phía TQ trì trệ, không cắm mốc, rốt cục phía Pháp lại nhượng bộ. Cột
mốc tại Khấu Mai cắm trên sườn núi phía đông, cách đỉnh 200m, chừa một
góc nhỏ cho TQ. Ngoài ra, cột mốc 14 cắm dưới chân phía Ðông, cột 16
dưới chân phía Tây-Bắc để xác định rõ ràng chủ quyền hai bên về ngọn
núi.
Nhưng TQ lại không tôn trọng, xâm chiếm đất vùng này sau khi cắm mốc.
Năm 1936, cột mốc số 14 bis được cắm thêm. Theo biên bản vị trí cột 14
bis xác định như sau : 580 mètres Sud-ouest de la borne 14 ; Est,
Sud-Est de la borne 15. Cột 14 bis cách cột 14 là 580m về phía Tây-Nam ; cột ở phía Ðông Ðông-Nam cột số 15.
Nhưng chủ quyền núi Khấu Mai rất có thể bị phía Trung Quốc đặt vấn đề
vào đầu năm 2001. Theo tài liệu của Nguyễn Chí Trung, thư ký riêng của
ông Lê Khả Phiêu, viết ngày 21 tháng 7 năm 2002, được « Câu Lạc Bộ Dân
chủ » đang trên mạng Ý Kiến ngày 25 tháng 11 năm 2003 dưới nhan đề
« Tài Liệu Mật của đảng CSVN », nội dung cho biết Giang Trạch Dân, lúc
đó là lãnh đạo tối cao Trung Quốc, muốn dành núi Khấu Mai cho Trung
Quốc. Lập luận phía TQ đặt lại vấn đề : Cột mốc không cắm trên đỉnh núi
vì trước kia do công nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lại
sườn núi, bây giờ đưa cột mốc lên đỉnh. Toàn bộ 308 cột mốc cắm trên
biên giới Việt-Trung, chỉ có cột mốt cắm tại Khấu Mai là cắm ở sườn núi
thay vì đỉnh núi.
Đến lúc viết những dòng chữ này người viết vẫn không biết được núi Khấu
Mai được phân chia ra sao theo công trình cắm mốc (chấm dứt ngày đầu
năm 2009) của hiệp ước phân định biên giới ký ngày 25 tháng 12 năm
1999.
6/ Hoàng Sa và Trường Sa. Công
hàm ngoại giao của Đặc Sứ Thanh triều tại Paris, gởi chính phủ Pháp
ngày 29 tháng 9 năm 1932, tài liệu đính kèm cuốn « La Souveraineté sur
les Archipels Paracels et Spratleys » của bà Monique
Chemillier-Gendreau, các ý chính tạm dịch như sau :
Quần đảo Si-Chao-Tchuin-Tao (Tây Sa Quần Đảo), còn được gọi dưới tên
Tsi-Tcheou-Yang (Thất Châu Dương), nước ngoài gọi là Paracels, phía
đông bắc có quần đảo Ton-Chao (Đông Đảo, tức Pratas), tọa lạc trong
lãnh hải tỉnh Quảng-Ðông; là một bộ phận của lãnh hải tỉnh Quảng-Ðông…
các đảo nầy rải rác trải từ 110° 13 đến 112° 47 kinh tuyến Ðông; gồm
khoảng 20 đảo lớn nhỏ, phần lớn là những dải cát hoang, một số khác,
khoảng 10 đảo do đá tạo nên, 8 đảo thực sự là đảo, chia làm hai nhóm
Ðông và Tây. Nhóm Ðông gọi là nhóm
“Amphitrite”, nhóm Tây gọi là nhóm “Croissant”. Hai nhóm nầy cách đảo
Hải Nam 145 dặm biển và tạo thành vùng lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc.
Ðiều 3 của Công Ước Phân Ðịnh Biên Giới giữa Trung Hoa và Tonkin, ký
tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 qui định rằng ở Quảng Ðông, hai
bên thỏa thuận rằng các vùng tranh chấp ở phía đông và đông bắc Móng
Cái thì thuộc về Trung Quốc. Những đảo ở về phía Ðông của đường bắc nam
đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ và tạo thành đường biên giới thì chúng
cũng thuộc về Trung Quốc. Những đảo Keou-Teou (Trà Cổ) và những đảo nhỏ
khác ở về phía Tây của đường nầy thì thuộc về Việt Nam.
Ðiểm bắt đầu của biên giới giữa Indochine và tỉnh Quảng Ðông là Trúc
Sơn có tọa-độ 21° 30 vĩ tuyến Bắc và 108° 2 kinh tuyến Ðông. Theo những
gì ghi nhận trên đây, bờ biển Indochine ở về phía Tây của Trúc Sơn. Từ
điểm nầy, đi xuống về phía Nam, bằng cách nào thì quần đảo Paracels
cũng ở về phía Ðông của đường nầy và giữa quần đảo nầy với bờ biển
Indochine thì có đảo Hải Nam ngăn chặn. Người ta thấy dễ dàng, theo vị
trí địa lý của Paracels, là nó thuộc về nước nào.
.....”
Các điểm ghi nhận như sau :
- Hoàng Sa có tên Tàu là Thất Châu Dương.
- Hoàng Sa là lãnh thổ vùng cực nam của TQ.
-
Đường kinh tuyến từ đông điểm Trà Cổ của công ước phân định biên giới
26-6-1887 cho phép TQ có chủ quyền tất cả các đảo ở phía đông đường
kinh tuyến này.
Ta thấy điều ngang ngược thứ nhất ở đây của TQ là diễn giải công ước
1887 theo lối có lợi cho mình. Thực ra công ước 1886 có tên là
« Convention Relative à la Délimitation de la Frontière entre la Chine
et le Tonkin ». Phía TQ đã thay đổi Tonkin (Bắc Kỳ) thành ra Indochine,
cho là công ước này phân định biên giới giữa TQ và Indochine, nhằm
giành quần đảo HS về TQ. Đường kinh tuyến đi qua đông điểm đảo Trà Cổ
105° 43’ kinh độ Đông Paris chỉ có hiệu lực trong vịnh Bắc Việt, vì
công ước chỉ phân định các tỉnh Nam Hoa với Bắc Việt, nó chỉ có giá trị
ở đây và không có giá trị khi ra ngoài vịnh Bắc Việt.
Điều thứ hai, tên Thất Châu Dương là có thật, nhưng theo thư tịch của
TQ thì nó là tên của các đảo gần Văn Xương, đảo Hải Nam. TQ lấy tên này
đặt cho HS của VN, lập lại thủ thuật mà họ đã dành đất của VN như ở Tụ
Long, Kiến Duyên, Bát Tràng, Đèo Lương v.v… Tức là lấy tên một địa danh
của TQ đặt cho các vùng lãnh thổ của VN rồi hô hoán lên nói là đất của
TQ.
Thứ ba, chính TQ thời đó cũng đã khẳng định HS là vùng đất cực nam của
TQ. Ta thấy sự ngang ngược của TQ hiện nay đã lan xuống các đảo Trường
Sa.
Nhưng chưa hết. Hồ sơ của bộ Ngoại Giao Trung Quốc công bố ngày 30
tháng 1 năm 1980 viết rằng : “Trung Quốc là nước đầu tiên đã khám phá,
khai khẩn, thâu huê lợi và quản lý các quần đảo gọi là Xisha (Tây Sa)
và Nansha (Nam Sa). Từ ngàn năm nay, những nhà nước Trung Quốc đã liên
tục đặt quyền pháp trên những nơi đây. Dân tộc Trung Hoa là người chủ
hai quần đảo nầy không thể phản biện”.
Điểm ghi nhận đầu tiên là các bộ « chính sử » của Trung Quốc thì không
bộ nào viết Tây Sa và Nam Sa (hay dưới các tên khác) thuộc về Trung
Quốc.
Tài liệu chứng minh của hồ sơ bộ Ngoại Giao Trung Quốc là hai tác phẩm
Nan Zhou Yi Wu Zhi (Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn) và Funanzhuan
(Phù Nam Truyện của Khang Thái từ thời Tam Quốc (220-265) đồng thời một
danh sách 6 tác phẩm từ đời Tống đến đời Thanh (thế kỷ 11 đến thế kỷ
thứ 19) : Mong Liang Lu (Mộng Lương Lục), Qao Yi Zhi Luc (Ðảo Di Chí
Lược), Dong Xi Yang Kao (Ðông Tây Dương Khảo), Shun Feng Xiang Song
(Thuận Phong Tương Tống), Zhi Nan Zheng Fa (Chỉ Nam Chinh Pháp), Hai
Guo Wen Jian Lu (Hải Quốc Văn Kiến Lục). Hồ sơ này xác nhận rằng những
tác phẩm trên đây « kể lại những cuộc hành trình của người Hoa đi đến
Tây Sa và Nam Sa và những hoạt động sản xuất mà họ đã thực hiện từ hơn
ngàn năm » và « đã đặt tên lần lượt cho hai quần đảo nầy với những tên
sau đây : Jiurulozhou (Cửu Nhũ Loa Châu), Shitang (Thạnh Ðường),
Qianlishitang (Thiên Lý Thạnh Ðường, Wanlishitang (Vạn Lý Thạnh Ðường),
Changsha (Trường Sa), Qianlichangsha (Thiên Lý Trường-Sa),
Wanlichangsha (Vạn Lý Trường Sa) » v.v...
Các bộ sách đã dẫn đã được nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho là không
phải là chính sử » trong sử liệu Trung Quốc, Talawas, 11-12-2007. Ông
Phạm Hoàng Quân cũng dẫn chứng bằng các sử liệu của chính TQ là đất của
TQ chưa bao giờ vượt khỏi đảo Hải Nam
Ngoài ra, học giả Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham, trong Tập San Sử Địa số 29
(tháng 1 đến tháng 3 năm 1975), một tài liệu gối đầu của mọi người VN
muốn nghiên cứu HS và TS, cũng đã đã bẻ gẩy mọi lý lẽ của các học giả
TQ đưa ra để chứng minh HS là của TQ.
Mặt khác, bộ Nhị Thập Tứ Sử (bộ chính sử được tất cả các triều đại
Trung Quốc thừa nhận) tức từ Sử ký ghi chép từ Thượng cổ đến Tần, Hán,
cho đến Minh sử; và Thanh sử cảo soạn thời Dân Quốc, ở các mục Địa lý
chí, tất cả đều không đề cập đến các hòn đảo ở xa hơn đất Nhai Châu,
Quỳnh Châu, tức Hải Nam ngày nay.
Như thế, các tên Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường,
Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa
v.v... là từ đâu mà « gắn » vào HS và TS của VN ?
Theo TS Nguyễn Quang Ngọc, các địa danh Vạn Lý Trường Sa, Thạch Đường,
Thiên Lý Thạch Đường, Cữu Nhũ Loa Châu… chỉ là những địa danh phiếm,
chỉ các vùng biển, đảo nguy hiểm, không thuộc TQ.
Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân trong tài liệu dẫn trên: « xem
trong Quỳnh Châu phủ chí (tức tương đương Hải Nam tỉnh chí ngày nay) do
Quận thú Tiêu Khánh Thực tổ chức biên soạn vào năm Càn Long thứ 39
(1774), trong quyển 3, phần Dư địa chí, mục Cương vực, thấy chép: “…
nam tắc Chiêm Thành; tây tắc Chân Lạp, Giao Chỉ; đông tắc Thiên Lý
Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường; bắc tiếp Lôi Châu phủ Từ Văn huyện” (nam
là Chiêm Thành; tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông là Thiên Lý Trường Sa,
Vạn Lý Thạch Đường; bắc giáp huyện Từ Văn phủ Lôi Châu). Đoạn văn hành
chính về tứ cận này cho thấy rằng, Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch
Đường (tức Tây Sa và Nam Sa theo cách nghĩ và gọi của Trung Quốc ngày
nay) còn là một nơi chưa rõ chủ quyền và ngoài lãnh hải Trung Quốc mà
lại nằm ở hướng Đông của Hải Nam.»
Hồ sơ của bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã trích dẫn một đọan văn và cho là
của Vũ Kinh Tổng Yếu, viết dưới triều Renzong (1023-1063) Bắc Tống :
Triều đình Bắc Tống « ra lệnh cho quân đội hoàng gia tuần tiễu xây
dựng ở Guangnan (Quảng Nam, hiện thời là Quảng Ðông) một nơi đóng quân
nhằm vào việc tuần-tiễu trên biển » và « xây-dựng những chiến-thuyền
bằng loại có sống giữa (đao ngư - navire à quille)»... « Nếu người ta
theo gió Ðông để cho thuyền đi về hướng Tây-Nam, mất 7 ngày để từ
Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn) đến Jiuruluozhou (Cửu Nhũ Loa Châu)».
Cho rằng Jiuruluozhou (Cửu Nhũ Loa Châu) là « quần đảo Tây-Sa », hồ sơ
trên kết luận rằng « triều đình Bắc Tống đã hành sử dụng chủ quyền của
mình ở quần đảo Tây Sa », và « hải quân Trung Quốc đã tuần tiễu cho đến
Tây Sa ».
Nhưng sự thật thì hoàn toàn không đúng như thế. Wu Jing Zong Yao (Vũ Kinh Tổng Yếu) đã viết như sau :
« ... ra lệnh cho quân đội hoàng gia thực hiện việc tuần tiễu, xây dựng
một trại quân cho việc tuần tiễu trên biển tại hai bến tàu ở phía Ðông
và phía Tây khoảng cách là 280 trượng, cách Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn)
200 lí và xây dựng những chiến thuyền bằng loại có sống giữa (đao ngư).
Nếu người ta theo gió Ðông để cho thuyền đi về hướng Tây Nam, mất 7
ngày để đi từ Tunmenshan (Ðồn Môn Sơn) đến Jiuruluoshou (Cửu Nhũ Loa
Châu), thêm 3 ngày nữa thì đến Pulaoshan (Bất Lao Sơn thuộc Huanzhou
Hoàn-Châu), sau khi đi thêm 300 lí về hướng Nam thì tới Lingshandong
(Lăng Sơn Ðông). Ở phía Tây-Nam của nơi này thì có các nước Dashifu,
Sizi (Tích-Lan), Tianzhu (Thiên-Trúc). Không thể ước-lượng được khoảng
cách ».
Đồn Môn Sơn là cửa sông Châu Giang, Quảng Đông. Bất Lao Sơn là cù lao
Chàm, Huanzhou là nước Chiêm Thành, Dashifu, hay Dashi, theo một sách
cổ của Trung-Hoa, đó chỉ một vương-quốc thời Trung-Cổ ở trong vịnh
Persique ; Sizi là Srilanka (Tích-Lan) ; Tianzhu là Ấn Ðộ (theo các
sách của Tangshu, Songshi, Gugintushuzisheng).
Như thế, phần trích dẫn ghi trên của Vũ Kinh Tổng Yếu, đoạn ghi lại
việc hoàng đế Bắc Tống ra lệnh « xây dựng một trại quân dùng vào việc
tuần tiễu trên biển » ở bến Quảng Châu, một đoạn khác mô tả vị trí địa
lý của trại quân ghi trên, và một đoạn khác nữa mô tả hải trình đi từ
bến Quảng Châu cho đến Ấn Ðộ Dương. Không thấy chỗ nào ghi rằng hải
quân Trung Hoa đi tuần tiễu cho đến quần đảo « Xisha » (Tây Sa).
Hồ sơ của bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã cắt ra một đoạn để dán vào đó một
đoạn khác, nhằm ngụy tạo bằng chứng để dành lấy Hoàng Sa của Việt Nam.
Nhưng ý nghĩa chính là TQ đặt cho HS và TS một cái tên ở một địa danh
nào đó, sau đó đánh chiếm HS và TS của VN với danh nghĩa lấy lại lãnh
thổ. Tuy nhiên, vì bịa ra, do đó tài liệu của TQ có nhiều mâu thuẩn
không chấp nhận được.
7/ Ý nghĩa của bản đồ 9 gạch :
Nguồn gốc tấm bản đồ này có nhiều điểm không rõ rệt nhưng rất có thể
đây là chủ ý của các lãnh đạo TQ: họ tạo một hỏa mù để cho các học giả
VN mất thì giờ phỏng đoán. Đây là một thủ thuật của TQ, như dàn dựng
các tên giả, hay hoán đổi tên các làng v.v… để chiếm đất của VN. Ở đây
là chiếm biển Đông và các đảo HS và TS. Xuất xứ của nó thế nào do đó
không quan trọng, điều cần biết là nó dựng ra để nhằm mục đích gì?
TQ đã dàn dựng ra tên Tiểu Đổ Chú Hà để lấy đất Tụ Long, dựng ngọn Tiểu
Phân Mao Lãnh cướp đất Kiến Duyên và Bát Tràng, hoán đổi tên làng xã để
chiếm đất Đèo Lương, vẽ bản đồ để chiếm thác Bản Giốc, xây đường rày xe
lửa để chiếm đất Nam Quan, tráo tên các đảo HS và TS của VN để dành chủ
quyền… Tấm bản đồ chín gạch này do đó chắc chắn TQ dựng lên để chiếm
biển và đảo của VN.
Ý
nghĩa ban đầu của bản đồ chữ U có lẽ nhằm xác định các đảo trong khu
vực chữ U thì thuộc về TQ. Bởi vì quan niệm về chủ quyền vùng biển chỉ
mới có sau Thế Chiến thứ hai, qua các công ước về Biển 1958 và 1982.
Trước đó thế giới chỉ có quan niệm về “lãnh hải” 3 hải lý, là tầm đạn
đại bác.
Về chủ quyền trên biển của TQ bắt đầu khi nào cũng không chính xác,
nhưng chắc chắn chỉ mới biểu lộ sau này, sau Thế Chiến Thứ Hai. Các học
giả TQ cũng đề cao lý thuyết về “biển lịch sử”, cho rằng vùng biển giới
hạn bởi chữ U chín gạch là vùng biển “lịch sử của TQ. Khái niệm về biển
lịch sử cũng khá mới, nhưng sau đó không được thế giới chấp nhận, do đó
ý nghĩa biển lịch sử chữ U của TQ không thuyết phục được cộng đồng thế
giới.
Ở
miền Nam VN trước 1975 ít ai nghe nói bản đồ 9 gạch. Năm 1974, sau khi
chiếm HS, cũng không nghe nói đến bản đồ chữ U. Tuy nhiên, theo tài
liệu của GS Tạ Quốc Tuấn, « Vài Nhận-Xét Về Lập Luận Của hai chính-phủ
Bắc-Kinh và Đài-Loan » viết năm 1974, « lần đầu tiên Trung-Cộng đã
công-khai bộc-lộ rõ nguyên-nhân thầm-kín thúc-đẩy việc tranh-chấp
chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa: đó là nguồn
tài-nguyên thiên-nhiên ở vùng này. Thực vậy, bản tuyên-bố ngày
11.1.1974 có câu: Các tài-nguyên thiên-nhiên trong các vùng biển quanh
các quần-đảo này cũng thuộc về Trung-quốc. ». Cũng từ tài liệu này,
ngày 4.2.1974, Bộ Ngoại-giao Trung-Cộng lại ra một bản tuyên-bố
« Chính-phủ Trung-hoa đã nhiều lần tuyên-bố là các quần-đảo Nam-sa,
Tây-sa, Trung-sa và Đông-sa tất cả đều là phần lãnh-thổ của Trung-quốc
và nước Cộng-hòa Nhân-dân Trung-hoa có chủ-quyền bất-khả tranh-nghị đối
với các quần-đảo này và các hải-khu chung quanh các quần-đảo đó. ». Tài
liệu đề cập đến từ ngữ « hải khu », tức khu vực biển, nhưng không hề đề
cập bản đồ chữ U.
Tập San Sử Địa 29, Đặc Khảo về HS và TS, xuất bản tháng 1 năm 1975,
không có dòng nào nói đến bản đồ chữ U. Tập tài liệu La Souveraineté
sur les Archipels Paracels và Spratleys của bà Monique
Chemillier-Gendreau in năm 1996 cũng không có dòng nào nói đến tấm bản
đồ này, ngoài hai bản đồ đính kèm như là bằng chứng của TQ đòi hỏi vùng
biển.
Theo tài liệu của ông Cao Xuân Thự, Chuyên viên vụ Biển, Ban Biên Giới
của Chính Phủ, công bố nhân dịp hội thảo Biển Đông hồi tháng 3 năm
2009, có ghi chép : Ngày 30 tháng 7 năm 1977 : « Tám ngày sau khi ông
Đặng Tiểu Bình chính thức khôi phục lại địa vị, trong một tuyên bố
chính sách đối ngoại của TQ, ngoại trưởng Hoàng Hoa nói : lãnh thổ của
TQ chạy xa mãi về phía nam, tận bãi Tăng Mẫu gần Bornéo của Mã Lai…,
các người có thể thăm dò chúng nếu các người muốn, nhưng khi thời cơ
đến, chúng tôi sẽ thu hồi chúng hoàn toàn, không cần phải thương lượng
gì hết vì các quần đảo đó có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc… ». Đoạn
này cũng không nói đến biển chữ U mà nói các quần đảo đó (tức quần đảo
Natuna) có nguồn gốc thuộc về Trung Quốc…
Trên báo chí, sách vở và tài liệu nước ngoài, bắt đầu đề cập đến tranh
chấp biển Biển Đông từ thập niên 80. Nguyên nhân, vào năm 1980, công ty
Pertamina của Nam Dương khám phá mỏ dầu ở vùng đảo Natuna. Bản đồ chữ U
xuất hiện bao gồm thêm đảo Natuna. Việc này phía Nam Dương phản đối
mạnh, báo chí có nhắc nhở.
Do đó, có lẽ bản đồ chữ U cũng mới xuất hiện trên báo chí nước ngoài từ
thời điểm này. Ý nghĩa của nó cũng chỉ giới hạn về chủ quyền các đảo
thuộc TQ.
Về văn kiện chính thức, tác giả viết bài chưa đọc hay thấy tài liệu nào
từ phía TQ chính thức dẫn tấm bản đồ chữ U, ngoại trừ công hàm ngày 7
và 8 tháng năm 2009 vừa qua để phản đối hai hồ sơ của VN mà Mã Lai (nộp
chung).
Như thế, tạm kết luận rằng, bản đồ chữ U từ 1982 trở về trước có ý
nghĩa : TQ có chủ quyền các đảo trong khu vực đó đồng thời giả thuyết
về vùng nước lịch sử của TQ.
Từ 1982 trở đi thì bản đồ chữ U có ý nghĩa : khẳng định khu vực biển
của TQ. Điều này có thể hiểu vì năm 1982 luật Quốc Tế về Biển ra đời,
theo đó, các đảo cũng có hiệu lực như trên đất liền về lãnh hải, vùng
kinh tế độc quyền, thềm lục địa. TQ đã thông qua công ước này năm 1996.
Do đó quan niệm chủ quyền về biển chữ U của TQ, sau 1982, do hiệu lực
của HS và TS (vì TQ có chủ quyền ở HS và TS theo công hàm của ông Phạm
Văn Đồng). Diện tích khu vực biển này co giãn tùy theo nhu cầu và đối
tượng.
Giả thuyết về biển lịch sử của TQ khó đứng vững vì công ước về Biển 1982 không có khoản nào định nghĩa về biển lịch sử.
Nhưng TQ là bậc thầy về chiến lược; họ luôn úp úp, mở mở về ý nghĩa của
bản đồ này, làm nhiều người không biết TQ muốn gì ?.
Sau khi TQ sát nhập đảo Natuna vào bản đồ chữ U, Nam Dương phản đối
mạnh mẽ, đồng thời vũ trang mạnh. Đây là nước dông dân nhất khu vực
Đông Nam Á và có quân lực mạnh nhất. Từ năm 2000 trở lại đây thì bản đồ
chữ U loại trừ đảo Natuna, có nghĩa là TQ đã nhượng bộ. Thí dụ khác,
bản đồ chữ U từ năm 1950 thì có thêm quần đảo Sulu, nhưng những năm sau
này thì bản đồ này không bao gồm quần đảo này nữa.
Như thế, biển chữ U của TQ có thể rất lớn nếu các nước chung quanh lo
sợ. Nhưng sẽ rất nhỏ, hay không có gì, nếu các nước chung quanh không
nhượng bộ.
TQ đã ký và thông qua luật Quốc Tế về Biển 1982, bản đồ chữ U hôm nay
chỉ là minh họa, thay đổi tùy theo thời điểm, tùy theo tương quan lực
lượng, tùy theo tham vọng bành trướng của TQ, nhưng chắc chắn ý nghĩa
của bản đồ chữ U sẽ được TQ giải thích theo luật Biển 1982 cho dư luận
quốc tế lúc cần thiết.
8/ Kết luận :
Ta thấy từ Tiểu Đổ Chú Hà, Tiểu Phân Mao Lãnh, đền thờ Phục Ba, đất
Đèo Lương, núi Khấu Mai, đất Nam Quan, điểm nối ray, thác Bản Giốc (sau
này có thêm vụ chuối xanh, vì chỉ có người Hoa trồng chuối trên biên
giới), người Hoa thì đất của người Hoa, nghĩa trang người Hoa thì đất
của người Hoa v.v… cho đến Thất Châu Dương, Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh
Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường, Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý
Trường-Sa, Vạn Lý Trường Sa, bản đồ chín gạch… đều do phía TQ đặt ra để
chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của VN. Tất cả rõ ràng chỉ là những
bịa đặt lếu láo, rất sơ đẳng, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, chỉ gạt
được những người không biết. Đều trớ trêu là cái luận điệu sơ đẳng bịa
đặt lặp đi lặp lại này đã dành được đất của dân tộc Việt Nam nhiều lần.
Và có thể nó vẫn tiếp tục lường gạt được người Việt Nam trong vấn đề
tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nếu chúng ta
không cảnh giác.
Ta phải biết TQ đã có các âm mưu gì và sẽ có các âm mưu gì ?… Biết địch
biết ta trăm trận trăm thắng. Khi hiểu cặn kẻ, ta có thể có các biện
pháp thích ứng. Điều đáng chú ý truóc hết: Các trường hợp TQ trả đất Tụ
Long cho VN năm 1724, vấn đề chủ quyền đảo Natuna của Nam Dương đầu
thập niên 1980, phía TQ nhượng bộ là do e ngại sức mạnh chứ không hề do
việc tôn trọng một nguyên tắc hợp lý nào cả. Nếu VN thời đó « yếu »,
chắc chắn Tụ Long đã mất trước khi Pháp vào. Trường hợp Bắc Hàn hiện
nay là một nước nghèo về mọi mặt nhưng họ không hề sợ HK hay các nước
chung quanh như Nhật và Nam Hàn, là một gương để VN suy nghĩ.
VN không thể nhu nhược, để TQ cởi đầu cởi cổ như hôm nay qua các tuyên
bố cấm biển hay tự tiện đặt dàn khoan khai thác trong vòng thềm lục địa
của mình. Dân tộc VN từ xua đến nay chưa hề “sợ” TQ.
Phương pháp để hóa giải bản đồ chín gạch, nếu TQ dưạ theo luật biển
1982 (giả thuyết này hầu như là 99%), phía VN phải khẳng định chủ quyền
các đảo HS&TS, tìm mọi cách đưa việc giải quyết chủ quyền HS ra
trước một trọng tài quốc tế. Bất kỳ một nhượng bộ của phía VN sẽ giúp
cho TQ củng cố chủ quyền của họ ở Biển Đông trước dư luận quốc tế.
Chính sách giữ nước của đảng CSVN hiện nay có nhiều điều nguy hiểm. Họ
có khuynh hướng hủy bỏ hiệu lực của các đảo HS và TS, tức một hình thức
tự hủy hoại thân thể, tự đốt nhà của mình. Đây là một điều cực kỳ phi
lý: HS&TS là của VN. VN có đầy đủ lý lẽ, bằng chứng lịch sử và căn
bản pháp lý để chứng minh việc này. Nhưng VN quá « yếu », không thể bảo
vệ lãnh thổ nước mình, đây là một điều mà đảng CSVN phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Nhưng cho dầu thế nào, việc bảo vệ đất nước, chủ quyền lãnh thổ của dân
tộc, là bổn phận của mọi người. Giải pháp duy nhất để giữ nước hiện nay
là « dân chủ hóa » đất nước, mở cơ hội cho toàn dân chia sẻ trách nhiệm
và có sự đồng thuận trên các vấn đề lớn của đất nước. Đảng CSVN không
thể vì quyền lợi của một nhóm người mà hy sinh quyền lợi lớn lao của cả
dân tộc.
Trương Nhân Tuấn
Tham khảo :
Tài liệu internet :
- Tạ-quốc-Tuấn
Vấn-Đề Chủ-Quyền Đối với Hai Quần-Đảo Hoàng-Sa Và Trường-Sa: Vài
Nhận-Xét Về Lập Luận Của hai chính-phủ Bắc-Kinh và Đài-Loan
- Phạm Hoàng Quân, Tây Sa và Nam Sa trong sử liệu Trung Quốc, Talawas, 11-12-2007
- Nguyễn Quang Ngọc, Địa Danh Trung Quốc Các Quần Đảo giữa Biển Đông, Lịch Sử một Thế Kỷ Chuyển Đổi, www.hoangsa.org
- Cao
Xuân Thự, Điểm Lại Những sự kiện chính trong cuộc tranh chấp chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và mấy nhận xét về cách gây
xung đột về biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, www.hoangsa.org
Tài liệu đóng tập :
- Tập san Sử Địa số 29, Đặc Khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Văn Nghệ Khai Trí, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1975.
- Chemillier-Gendreau, Monique. La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Harmattan, 1996.
- Fourniau, Charles. Vietnam Domination coloniale et résistance nationale 1858-1914. Les Indes Savantes, 2002.
- Brisset, Vincent. La Chine, Une Puissance Encerclé ?, IRIS, 2002.
- Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay – NXB Sự Thật, 1979.
Tài liệu thuộc văn khố CAOM, Pháp :
- Deloustal. Les Mines de Tu-Long. AOM. Cote B 2899 ou B 6326.
- Dévéria, La Frontière Sino-Annamite. Descriptions Géographique et Ethnographique. AOM, cote D 1198
- Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Quang-Si. SOM, cote C 43.
- Dr Néïs , Sur Les Frontières Du Tonkin - Le Tour Du Monde, năm 1887. CAOM. BIB, SOM, Cote 20.543.
- Les Frontières du VietNam. Histoire des Frontières de la péninsule Indochinoise. Paris, l’ Harmattan. 1989. AOM. Cote 42934.
Category: Chính trị |
Views: 932 |
Added by: danchu
| Rating: 0.0/0 |