Ts Vũ Minh Khương
(Đại học
Quốc gia Singapore)
Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận
đánh quyết liệt có tính sống còn, nhưng quân sĩ cứ lui dần, lui dần đến bờ
sông. Để thể hiện ý chí quyết tâm, các vị tướng đã quyết định chặt đi cây cầu
duy nhất để không còn đường rút. Sau đó, khi giặc đến, tất cả đều hét vang xông
lên can trường chiến đấu với ý chí vô song. Trận đánh thắng lợi và quyết định
của các vị tướng khi đó đã trở thành một bài học lịch sử cho sự phát triển.
Dựa trên tích cổ này, trong một bài viết, TS. Vũ
Minh Khương đã chọn tựa đề: Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên? nhằm thể hiện dũng khí của thế hệ
người Việt Nam chúng ta hôm nay. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết đầy tâm huyết này để
mọi người cùng suy ngẫm.
I. Định lượng nỗi đau dân tộc:
Mỗi con người khi thấy dân tộc mình ở vào vị thế
thấp kém so với tiềm năng đều mang trong mình một nỗi đau. Nỗi đau này dù không
ai giống ai hoàn toàn và không thể đo đếm chính xác. Thế nhưng, nó cũng có thể
ước định được ở một chừng mực nhất định. Dưới đây là một phương cách đơn giản.
Mỗi người hãy tự trả lời bốn câu hỏi sau:
1. Chúng ta có thấy xót xa hổ thẹn về vị thế hiện
nay của dân tộc mình không?
2. Chúng ta có thấy lo lắng cho tương lai của đất nước mình không?
3. Nếu có cơ hội, thế hệ chúng ta có đủ sức đưa dân tộc mình đến một vị thế vẻ
vang (hơn mức hiện nay rất nhiều) không?
4. Cơ chế hiện thời có cho bạn làm được điều mà bạn hết lòng khao khát làm cho
đất nước mình không?
Với mỗi câu hỏi, câu trả lời “có” được điểm 1 và
câu trả lời “không” được điểm 0. Theo cách này, nỗi đau dân tộc của mỗi con
người được đo bằng tổng số điểm của ba câu hỏi đầu trừ đi điểm của câu hỏi 4.
Ví dụ, người mà câu trả lời là “có” cho cả ba câu hỏi đầu và “không” cho câu
hỏi 4 sẽ có mức đau bằng 3 (1+1+1-0=3); đó là nỗi đau ở mức tột cùng. Trái lại,
người mà câu trả lời là “không” cho cả ba câu hỏi đầu và “có” cho câu hỏi 4 sẽ
có mức đau bằng -1 (0+0+0-1= -1); trong trường hợp này, người trả lời không có
nỗi đau gì và thấy rất hài lòng với hiện tại.
Trong tập thể hàng triệu người, mức đau này có thể
khác nhau, nhưng có lẽ, nhiều người cùng chia sẻ một cảm nhận là mức đau trung
bình của hàng triệu người Việt chúng ta cũng không thấp hơn quá xa so với mức
tột cùng nói trên. Người viết bài này mong rằng Quốc hội và Ban chấp hành trung
ương Đảng khi có dịp hội họp có tổng hợp và báo cáo với quốc dân đồng bào nỗi
đau này của mình. Nếu mọi người thấy không đau mà lại tự hào vì thấy dân mình được
“xếp hạng hạnh phúc hàng đầu thế giới”[1] thì cũng là điều đáng suy nghĩ lắm.
II. Định lượng nguy cơ mất nước:
Một thước đo khác có tính cấp bách hơn là về nguy
cơ mất nước. Người xưa gợi ý ba thước đo về nguy cơ mất nước của một quốc gia:
1. Thứ nhất, người trên sai mà quan chức dưới đều
nín lặng.
2. Thứ hai, người được giao trọng trách không thấy việc mình đảm nhận là thiêng
liêng và gian khó mà lại coi đó là đặc quyền đặc lợi để vinh thân, phì gia, và
kết bè kéo cánh hưởng lộc.
3. Thứ ba, người người đua chen, từ quan đến dân, lao vào cách làm ăn chụp giật
và vụ lợi cá nhân trong sự xem thường đạo lý và sự tê liệt lòng tin vào công
lý.
Theo người xưa, nếu điều 1 là đúng thì nước này
đang ở vào thế suy vi; nếu điều 2 là đúng thì nước này sẽ khốn khó trong sự
chia rẽ lục đục; nếu điều 3 là đúng thì nước này sắp loạn. Nếu cả ba điều trên
đều đúng thì nước mất đến nơi rồi.
III. Tình thế nước ta và đôi điều trăn trở
Ai đã sống ở nước Nhật chắc đều ấn tượng về sự sâu
sắc và cẩn trọng trong hành xử của dân tộc này. Họ đã làm nên những điều kỳ vĩ
trong cải cách Minh Trị trong nửa cuối thế kỷ 19 và sự vươn lên kỳ diệu từ đống
tro tàn sau thế chiến thứ Hai.
Điều đặc biệt đáng nói là Nhật Bản đã và đang là
quốc gia có sự đồng cảm và giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất trong công cuộc phát
triển vừa qua. Thế nhưng, dường như sự kỳ vọng cao của họ về một dân tộc Việt
Nam có thể so sánh được với Hàn Quốc hay Nhật Bản có lẽ đang tắt dần. Quan sát
động thái hợp tác của Nhật Bản với nước ta có thể giúp chúng ta thấy phần nào
cảm nhận của bè bạn thế giới về tương lai của nước Việt chúng ta.
Năm 2006, tại Tokyo, Nhật Bản và Việt Nam có tuyên
bố chung rất long trọng và ấn tượng khẳng định hai bên cam kết xây dựng mối
quan hệ đối tác chiến lược[2]. Viện trợ của Nhật Bản cũng từ đó tăng lên.
Thế nhưng, Việt Nam, khác với những quốc gia và
vùng lãnh thổ có công cuộc phát triển kỳ vĩ (như Hàn Quốc hay Đài Loan), viện
trợ nhiều lên không làm chất lượng thể chế của chúng ta tốt lên, mà trái lại sa
sút trong sự so sánh với thế giới (hình 1). Đáng buồn hơn nữa, tháng 12 năm
2008, Nhật Bản thông báo tạm ngừng viện trợ cho Việt Nam vì vấn đề tham nhũng
và tin này công bố rộng rãi khắp thế giới.[3]
Nguồn: số liệu về ODA Nhật bản (khoản cho vay) từ
bộ ngoại giao Nhật bản; số liệu về hiệu lực chính phủ từ Ngân hàng Thế giới.
(Click vào để xem hình lớn)
Ví dụ trên cho thấy sự sa sút của chúng ta không
phải do ai chống phá, mà chính do sự yếu kém trong hệ thống trước công cuộc
phát triển của dân tộc.
Trong thực tế hiện nay, chúng ta không thể đổ lỗi
cho cá nhân cụ thể nào mà phải thấy đây là “lỗi hệ thống” như nhiều người đã
từng nêu ra. Bản chất của lỗi hệ thống là sự khủng hoảng về hệ thức tư duy[4].
Nguyên nhân gốc rễ của sự khủng hoảng này là do những định đề và thiết kế tổ
chức kiểu cũ đã trở thành lực cản cho quá trình nhận thức của tư duy và cải
biến của xã hội sang khung thức vận hành mới.
Nếu hệ thống quản trị xã hội không chủ động tạo sự
chuyển dịch có tính hồi sinh sang khung thức phát triển mới thì xã hội chắc
chắn sẽ trải qua giai đoạn khủng hoảng trong sự suy tàn của hệ thống cai trị
hiện thời. Trái lại, nếu hệ thống biết chủ động nắm bắt quy luật, mạnh dạn bước
vào công cuộc hồi sinh thì nó có thể bước vào trạng thái khởi phát (xem Bảng 1
dưới đây).
Bảng 1. Đặc trưng Hệ thống trong Lựa chọn Chuyển
đổi: Suy tàn hay Khởi phát
Vận hành của hệ thống
Thụ động, thúc thủ, thậm chí tê liệt (trên bảo
dưới không nghe)
Có định hướng mạnh mẽ vào các mục tiêu chiến lươc;
sáng tạo, cộng hưởng, và hợp tác gắn bó.
Hệ thống thông tin
Mập mờ, sai lệch, thậm chí bị ém nhẹm, giấu giếm
Minh bạch, chính xác, có hệ thống với chất lượng
và khả năng tiếp cận ngày một nâng cao với sự phản hồi và đóng góp chặt chẽ của
công dân.
Tiêu chí
|
Suy tàn
|
Khởi phát
|
Tầm nhìn
|
Bị che mờ bởi hào quang quá khứ và sự lú lẫn của
tư duy cũ được gia cường bởi lợi ích cá nhân và phe nhóm.
|
Hướng về khát vọng tương lai chia sẻ sâu sắc bởi
mọi tầng lớp nhân dân. Đó là ước mơ đời đời thúc giục, người người khao khát.
|
Chiến lược
|
Mơ hồ; chủ yếu xoay xở để giữ ổn định bằng cách
gia cường các chốt hãm tạo bởi những định đề có từ quá khứ.
|
Dựa trên sự trỗi dậy của nguyên khí dân tộc
trong tầm nhìn thời đại và ý thức trách nhiệm với tương lai.
|
Phong cách lãnh đạo
|
Sự vụ, đối phó, né tránh sự thật.
|
Khơi dậy sự phấn khích của toàn dân bằng hoài
bão lớn, phẩm chất hiến dâng, sự trân trọng từng con người, và khả năng qui
tụ hiền tài.
|
Văn hóa tổ chức
|
Mọi người, dù là có chức vụ cao đều thấy không
có quyền lực.
Trong đáy lòng, thực tế không còn những giá trị
thiêng liêng để tôn thờ. Ngậm miệng ăn tiền.
Hệ thống không ghi nhận đóng góp hay qui trách
nhiệm cho cá nhân về mỗi nỗ lực thực hiện.
|
Ai ai cũng thấy trách nhiệm và khả năng đóng góp
của mình vào sự nghiệp chung.
Mọi người đều chia sẻ những giá trị thiêng liêng
gắn với tiền đồ và danh dự dân tộc
Vai trò cá nhân được đặc biệt coi trọng. Mỗi mặt
trận đều có vị tướng lĩnh xuất chúng.
|
|
|
|
|
|
|
Sử dụng nguồn lực
|
Phung phí, dàn trải.
Luôn cảm thấy thiếu hụt tài chính và nguồn lực
vật chất; trong khi coi thường giá trị con người.
Vô thức trong việc lãng phí tài nguyên và vay nợ
nước ngoài.
|
Tiết kiệm, chiến lược, và tập trung trong sử
dụng nguồn lực.
Trọng dụng người tài để nguồn lực luôn đến dồi
dào, sinh sôi và phát huy mạnh mẽ.
Chỉ dùng đến tài nguyên và nợ nước ngoài cho
những mục tiêu đặc biệt chiến lược và tính thấu đáo mọi hậu quả của nó.
|
IV. Làm gì để vượt lên
Không ít bè bạn đã có thời tin rằng, Việt Nam là
một dân tộc có tinh thần quật khởi và là một ứng viên làm nên những kỳ tích
phát triển ở nửa đầu thế kỷ 21. Trong thế kỷ 21 này, động lực cho sự phát triển
thần kỳ chỉ có thể có được nếu ba điều kiện sau hội đủ:
1- Toàn dân tộc đồng tâm trong khát vọng vươn lên
sánh vai các dân tộc vẻ vang của thời đại.
2- Hiểm họa an ninh quốc gia ngày càng gay gắt.
3- Hệ thống chính trị nhận thức được lòng dân là
ánh sáng mặt trời và văn minh nhân loại là quy luật của trời đất. Trong nhận
thức đó, lãnh đạo phải là người có thể ngẩng cao đầu đón ánh mặt trời của lòng
dân và lái con thuyền dân tộc vượt qua biển cả trong sự thuận hòa của qui luật
trời đất.
Kinh nghiệm của Indonesia với thắng lợi vang dội
của Tổng thống Yudhoyono trong cuộc bầu cử toàn dân đầu tháng 7 vừa rồi là điều
đáng suy nghĩ. Ông được đánh giá là đã làm xuất sắc cương vị tổng thống trong
năm qua (2002-2009) với nỗ lực ấn tượng trong củng cố nền móng phát triển của
Indonesia và chương trình chống tham nhũng với lời nói và hành động nhất quán
và mạnh mẽ.
Cũng nhờ vậy mà trong mấy năm qua, Indonesia đã
vượt lên từ sự sa sút sau sụp đổ của chính quyền độc tài Suharto và trở thành
quốc gia tăng trưởng nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á trong những tháng đầu
năm 2009. Cũng trong bối cảnh dân chủ sống động, ở Malaysia, Thủ tướng mới
Najib nhận được sự đồng thuận cao của người dân (65% tín nhiệm) sau 100 ngày
cầm quyền nhờ những cải cách đặc biệt ấn tượng.
Trong nỗ lực cải cách hệ thống ở Việt Nam, với xu
thế tất yếu hướng tới một nền dân chủ do dân và vì dân, chúng ta trước hết cần
đặc biệt chú ý áp dụng một số cải tiến kỹ thuật, tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa cực
kỳ then chốt. Dưới đây là hai ví dụ nhỏ.
1- Lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử
Trong bối cảnh không dễ dàng đổi thay một cơ chế
hay một hệ tư duy, việc lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử có tác dụng quan
trọng.
Bài học này có từ kinh nghiệm của Tổng thống
Abraham Lincoln khi ông còn là một luật sư. Khi đó nước Mỹ có luật là người lớn
không thể đòi khoản nợ mà người vị thành niên vay mình. Điều luật này lập tức
bị nhiều nhiều thiếu niên lạm dụng: họ vay tiền rồi từ chối trả nợ. Nhiều chủ
nợ cay đắng chấp nhận vì luật pháp không ủng hộ họ.
Trong tình thế này, luật sư Lincoln cũng không có
cách nào khác để giúp thân chủ của mình đòi nợ ngoài việc đề nghị tòa án lưu
giữ hồ sơ là cậu thiếu niên này đã quỵt nợ và ghi rõ cậu đó sẽ không bao giờ
được coi là người lớn nếu không trả món nợ này. Lo sợ về đề xuất này được thực
hiện, cậu thiếu niên này và gia đình đã vội vã xin trả món nợ và tình trạng
quỵt nợ kiểu này từ đó không còn nữa.
Bài học này cho thấy, con người ta sẽ thường chỉ
có hành vi lạm dụng khi trốn lủi được sự phán xét. Do đó, chúng ta đề nghị có
đạo luật để Đảng, Quốc hội, Nhà nước, và Chính phủ phải lưu trữ thật tốt mọi
luận bàn và quyết định quan trọng về chính sách phát triển và bổ nhiệm nhân sự
để toàn xã hội được biết trong một thời hạn sớm nhất có thể. Khi đó, ai đề xuất
hay quyết định những việc gì, dù tốt đẹp cho dân cho nước hay làm hại dân hại
nước; dù đề bạt người hiền tài hay nâng đỡ kẻ tham nhũng sẽ đều được sự phán
xét nghiêm minh của lịch sử.
2- Lựa chọn và đánh giá lãnh đạo dựa trên phân
loại khoa học
Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo và chủ chốt có ý
nghĩa sống còn với công cuộc phát triển. Công việc hệ trọng này nên dựa trên
một sự phân loại khoa học, có hệ thống. Tối thiểu cần dựa trên hai tiêu chí:
Phẩm chất hiến dâng và Tư duy cải cách. Trên mỗi tiêu chí, cho điểm từ 1 đến 5
(1=rất thấp so với mức trung bình; 2=thấp hơn mức trung bình; 3=mức trung bình;
4=cao hơn mức trung bình; 5=vượt xa mức trung bình).
Để lựa chọn người cho một cuộc bầu cử chính thức,
một tổ chức (dù là Đảng, Quốc hội, hay Chính phủ) nên có phân loại khoa học
theo hai tiêu chí trên. Ví dụ: (i) Ban Chấp Hành Trung ương đánh giá về các ủy
viên Bộ Chính trị hiện tại hoặc các ủy viên dự kiến cho khóa tới; (ii) Quốc hội
đánh giá các bộ trưởng và các vị giữ trọng trách cao hơn.
Hình 2: Phân loại và đánh giá cán bộ chủ chốt (Click vào để xem hình lớn).
Tổng hợp đánh giá của cả tập thể về một cán bộ chủ
chốt sẽ cho phép phân loại cán bộ theo hình vẽ 2 nêu trên.
Theo đó, chỉ người có mức điểm trung bình cao
(nghĩa là trên 3,0) trên cả hai tiêu chí: “Phẩm chất hiến dâng” và “Tư duy cải
cách” (ô I) mới được lựa chọn vào bầu cử cho các cương vị cao như ủy viên Bộ
chính trị hay bộ trưởng và các vị trí cao hơn. Đảng và Quốc hội, nếu muốn có
lòng tin của dân cần công khai các chỉ số này cho cán bộ chủ chốt ở cả Trung
ương và địa phương.
Theo đánh giá của nhiều người, có nhiều cán bộ chủ
chốt của ta ở ô III (có năng lực nhưng cơ hội, tham nhũng) và ở ô IV (vụ lợi cá
nhân, bảo thủ). Điều đặc biệt đáng nói là cách đánh giá này không chỉ xác đáng
còn tạo động lực để mỗi cán bộ đều tự rèn luyện và tốt hơn lên. Mục tiêu cuối
cùng của chúng ta là, tất cả những ai được đứng trong hàng ngũ lãnh đạo, thậm
chí chỉ là cán bộ trong bộ máy Nhà nước, đều phải ở ô I với độ tin cậy cao của
toàn dân về phẩm chất hiến dâng và tư duy cải cách.
V. Thay lời kết
Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta
hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta
không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.
Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị
thế đẹp và nhiều tài nguyên quý giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải
qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê
đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ
sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và
dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày. Mỗi chúng ta, dù sao
hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả
cảm “chặt cầu để tiến lên không?”
____________________ [1] Tổ chức New Economic Foundation vừa đưa ra xếp
hạng chỉ số hạnh phúc năm 2009, trong đó Việt Nam xếp hạng 5. Điểm tốt của cách
xếp hạng này là khuyến khích các nước tiêu dùng ít vật chất hơn. Điểm hạn chế
là phương pháp dễ gây ngộ nhận cho các nước nghèo. Thứ nhất, họ dùng khảo sát
mức độ hài lòng với cuộc sống thực hiện năm 2005 (nghĩa là 5 năm trước đây) và
khảo sát này chủ yếu dựa vào một nhóm nhỏ người sống ở thành phố. Thứ hai, họ
chia chỉ số hài lòng cho lượng vật chất tiêu dùng; nói một cách nôm na, chỉ số
hài lòng của người Mỹ là 8 nhưng vì họ đi ô tô nên chỉ số hạnh phúc của họ thấp
hơn Việt Nam với chỉ số hài lòng là 6,5 nhưng đi xe máy.
[2] “Japan-Vietnam Joint Statement: Toward a
Strategic Partnership for Peace and Prosperity in Asia”; October 19, 2006;
Ministry of Foreign Affair, Japan; URL:
http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/vietnam/joint0610.html, xem ngày
11/07/2009.
[3] “Japan Suspends Aid to Vietnam, Citing
Corruption”; URL:
http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601080&sid=aTIhAZGLZ2Ko&refer=asia,
xem ngày 11/07/2009
[4] Xem thêm Elgin, D. (1977), “Limits to the
management of large complex systems”, Assessment Of Future National and
International Problem Areas, Stanford Research International, Palo Alto, CA.
|