Lê Vĩnh – Nguyễn Thanh Văn
Xem đoạn video ngư dân ta van lạy trước
họng súng của bọn hải quân Trung Quốc, người Việt Nam không ai là không cảm thấy nhục nhã và căm hận đến bầm gan
tím ruột. Nhục nhã và căm hận!.... Nhưng, căm hận ai? Và vì đâu mà nên nông nỗi
này mới là điều cần phải xác định cho rõ. Vì nếu nhìn vấn đề sai trật thì cách
giải quyết cũng sẽ sai trật.
Vấn đề là, các vùng biển mà dân ta bị
làm nhục là nơi mà Trung Quốc nói đó là biển của họ, và họ chỉ thi hành luật
pháp của nước họ. Còn Cộng Sản Việt Nam cũng nói đó là biển của Việt Nam. Tình trạng “sư nói sư phải, vải nói vải hay” này đã diễn
ra từ mấy chục năm nay, và là những tranh chấp quốc tế, nhưng Hà Nội không dám
đưa ra quốc tế để giải quyết. Còn Trung Quốc thì ngày càng ngang ngược lấn tới.
Vì vậy cần phải xem xét lại vấn đề từ đầu để nhận biết nguyên nhân.
Bài này không nhắc tới các giai đoạn
lịch sử trước khi có sự hiện diện của nhà nước Cộng Sản Việt Nam (vì các giai
đoạn đó không liên hệ đến họ), mà chỉ đề cập đến cách hành xử của nhà nước này
đối với những tranh chấp trên biển Đông từ khi họ nắm quyền cho đến nay. Một
cách ngắn gọn, người ta có thể thấy những điều này qua bài viết “Những vấn
đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng”, của ông Lê
Minh Nghĩa, cố Trưởng ban Ban Biên giới (1), mà nội dung tương tự cũng đã được
một số báo chí của Đảng đăng lại gần đây. Qua đó, ở phần “Về các vấn đề biển
Đông”, cho đến trước năm 1975, Ông Lê Minh Nghĩa chỉ nêu ra được những
khẳng định và xác lập chủ quyền trên biển Đông của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa,
mà không đưa ra được bất cứ một hành động tương tự nào của nhà nước Cộng Sản
Việt Nam; mặc dù ông có nhắc đến lời tuyên bố ngày 15/8/1951 của Thủ tướng
Trung Quốc, ông Chu Ân Lai cho rằng, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (theo
lối gọi của Trung Quốc) là của nước Tàu. Tuy có nhắc đến việc Trung Quồc chiếm
Hoàng Sa năm 1974, nhưng ông không đề cập gì về phản ứng của Nhà cầm quyền Hà Nội
trước việc này; Ông cũng làm như không biết là đã từng có trận tử chiến của hải
quân Việt Nam Cộng Hoà để bảo vệ Hoàng Sa. Ông không hề nhắc đến cuốn bạch thư
năm 1974 về Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam Cộng Hoà với những bằng chứng lịch
sử và khẳng định chủ quyền của Việt nam đối với 2 quần đảo này (2). Ông cũng
không nói gì về các nỗ lực đấu tranh của Việt Nam Cộng Hoà trên các diễn đàn
quốc tế để giành lại Hoàng Sa (3), và không hề đả động gì đến sự kiện tại Hội
Nghị Quốc Tế về luật biển tại Caracas, nước Venezuela (tháng 6 năm 1974) trước
những bằng chứng hiển nhiên của phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà về chủ quyền của
Việt Nam đối với Hoàng Sa Trường Sa, thì Trung Quốc không đưa ra được một bằng
chứng nào, họ chỉ có thể tung ra vài tuyên bố lăng mạ hạ cấp và bỏ phòng họp đi
ra.....
Có người sẽ cho rằng, trước năm 1975
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hoà, thì Cộng Sản Việt Nam không
có trách nhiệm liên hệ, nên ông Lê Minh Nghĩa không đề cập đến. Nhưng nếu thế
thì sẽ phải giải thích như thế nào về các dữ kiện sau đây:
Theo thông tấn xã (CSVN) thì ngày
15/06/1956, trong buổi tiếp tân dành cho viên xử lý thường vụ Tham Tán đại sứ
quán Trung Quốc tại Hà Nội, Li Shimin, thứ trưởng Ngoại Giao chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (tức là cộng sản Việt Nam), Ung Văn Khiêm đã chính thức xác
nhận là "Dựa vào những tài liệu mà phía Việt Nam có trong tay, các đảo
Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa), xét về mặt lịch sử, là thuộc
về Trung Quốc". Cùng có mặt trong buổi tiếp tân này, Lê Lộc, xử lý thường
vụ giám đốc Phòng Á Châu Sự Vụ, đã nói thêm: "Trên mặt lịch sử, các đảo
Tây Sa và Nam Sa đã là đất đai của Trung Quốc từ dưới đời Nhà Tống (960-1279)".
(4)
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ
Trung Quốc tuyên bố lãnh hải của họ là 12 hải lý, áp dụng cho các vùng lãnh thổ
của Trung Quốc, trong đó kể cả các quần đảo Dongsha, Xisha (Tây Sa, tức Hoàng
Sa của Việt Nam), Zhongsha, Nansha (Nam Sa, tức Trường Sa của Việt Nam). Mười
ngày sau đó, ông Phạm Văn Đồng, đại diện cho chính phủ do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo,
gửi Thủ Tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc một công hàm xác nhận "Chính
Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Cộng Sản Việt Nam) công nhận và ủng hộ công
bố của chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong bản công bố ngày 4 tháng 9
năm 1958". Nói cách khác, qua công hàm này cộng sản Việt Nam đã chính
thức xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng. Điều cần
nhấn mạnh là, ông Phạm văn Đồng, nhân danh nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã chẳng
những “ghi nhận”, “tán thành”, mà còn chỉ thị cho các cấp “triệt để
tôn trọng” hải phận của Trung Quốc, như đã được xác định trong bản đồ về
đường ranh giới lãnh hải, bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, mà Trung Quốc đã
đưa ra.
Trở lại bài viết của ông Lê Minh Nghĩa,
thì từ năm 1975 trở đi, Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc đã có một số
những đàm phán về vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, bài viết của ông Lê Minh Nghiã
cũng như thực tế cho thấy, chưa bao giờ Hà Nội có động thái nào để chính thức
phủ nhận những tuyên bố của các giới chức Cộng Sản Việt Nam và công hàm của ông
Phạm Văn Đồng nêu trên. Như thế có nghĩa là chúng vẫn còn nguyên giá trị. Do
đó, chẳng ai ngạc nhiên trước sự im lặng gần như tuyệt đối của cả 15 thành viên
Bộ Chính Trị đảng CSVN hay những tuyên bố chiếu lệ của người phát ngôn Bộ ngoại
Giao VN. Xin nhắc lại, là ông bộ trưởng ngoại giao chưa hề dám mở lời phản đối
Trung Quốc. Và thế là Trung Quốc tiếp tục dùng bản công hàm Phạm Văn Đồng như
là một bằng chứng vững chắc nhất để xác định chủ quyền của họ trên Hoàng Sa và
Trường Sa. Không những thế, gần đây, qua những cuộc đàn áp thanh niên sinh viên
yêu nước biểu tình chống Trung Quốc xâm lược; hoặc bắt bớ các nhà dân chủ lên
tiếng phản đối Trung Quốc, và các lệnh lạc của nhà cầm quyền Hà Nội yêu cầu ngư
dân Việt Nam hãy tránh xa các vùng biển Trung Quốc chiếm đoạt, phải chăng là
những hành động mà Hà Nội muốn thể hiện cho Bắc Kinh biết là họ vẫn đang thực
hiện những điều đã cam kết trong công hàm Phạm Văn Đồng. Đó là “ghi nhận”,
“tán thành” Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc; đồng thời chỉ thị cho
các cấp “triệt để tôn trọng” lãnh hải đó của Trung Quốc?
Do đó, sở dĩ Trung Quốc đã có thể làm
nhục được ngư dân Việt Nam trên biển Đông, mà người Việt Nam chỉ biết ngậm hờn
không làm gì được, là vì chính nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã dâng những
vùng biền đó cho Trung Quốc, và còn hứa sẽ “triệt để tôn trọng” sự giao
nhượng này. Với kinh nghiệm đau thương ở biển Đông, nếu chính quyền cộng sản
Việt nam vẫn tiếp tục tồn tại để tạo thêm điều kiện cho Trung Quốc làm nhục dân
tộc Việt Nam, thì viễn tượng một ngày nào đó đài truyền hình Trung Quốc
chiếu cảnh đồng bào Tây Nguyên (hay ở những nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam)
lạy lục quân Trung Quốc xin tha mạng chỉ còn là vấn đề thời gian.
(1) http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_LeMinhNghia.htm
(2)
Bạch Thư VNCH về Hoàng Sa,
Trường Sa
(3) Nhớ lại và suy ngẫm về vụ Hải
Chiến Hoàng Sa (1974),Vương Văn Bắc, Cựu Tổng trưởng ngoại Giao VNCH (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=91173).
Trong bài viết này, ông Vương Văn Bắc cũng đề cập đến nhiều nỗ lực (nhưng thất
bại) của VNCH tiếp xúc và kêu gọi CSVN hãy cùng chống lại hoạ xâm lược của
Trung Quốc.
(4) "Reassessing South Vietnam", Frank Ching, Far East
Economic Review, 02-10-1994
|